Hồ Chí Minh hoàn thiện
đường lối chính trị
và tổ chức cho sự ra
đời của Mặt trận Việt Minh
1- Hồ Chí Minh là tượng trưng cho tinh hoa của dân tộc Việt
“ Tự do độc lập là quyền trời cho của mỗi dân tộc… Hễ một
dân tộc đã đứng lên kiên quyết tranh đấu cho Tổ quốc họ thì không ai, không lực
lượng gì chiến thắng được họ” (1).
Độc lập, tự do là tư tưởng cốt lõi của học thuyết giải phóng và phát triển dân
tộc của Hồ Chí Minh, là nền tảng của đường lối chiến lược đại đoàn kết dân tộc
qua các thời kỳ cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Sự hình thành Mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng Việt
Việt Minh ra đời giữa lúc nhân dân Việt
“Quyết làm cho nước non này,
Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền:
Làm cho con cháu Rồng, Tiên,
Dân ta giữ lấy lợi quyền của ta” (2)
Hồ Chí Minh sớm xác định cuộc cách mạng của nhân dân các nước thuộc địa chống
lại ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc là “ dân tộc cách mệnh”. Cuộc cách mạng
để “ giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào”, là một sự nghiệp lớn, “ là việc
chung của cả dân chúng”, “ trong đó công nông là gốc cách mệnh”, là “ chủ cách
mệnh”, “học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ…là bầu bạn cách mệnh”; các giới
đồng bào sĩ, nông, công, thương đều phải đoàn kết lại do đảng cách mạng lãnh
đạo để chống bọn đế quốc và tay sai.
Người không rơi vào giáo điều khuôn mẫu, không đơn giản hóa vấn đề dân tộc theo
quan điểm coi vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề nông dân và nội dung cơ bản về
quyền lợi của nông dân là ruộng đất.
Nội dung cơ bản của cách mạng thuộc địa là quyền tự do độc lập. Nhân dân thuộc
địa có một động lực vĩ đại khi họ đã hiểu được giá trị của sự đoàn kết dân tộc,
quyết vùng dậy đấu tranh chống ách thống trị của chủ nghĩa thực dân giành lại
quyền độc lập dân tộc và tự do cho toàn dân.
Cách mạng của nhân dân các nước thuộc địa có thể giành được thắng lợi trước
cách mạng của nhân dân các nước tư bản và họ có thể giúp đỡ những người anh em
ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn.
Đây là những quan điểm cách mạng cơ bản của Hồ Chí Minh làm nền tảng để xây
dựng đường lối chiến lược cách mạng, thực hiện khối đại đoàn kết thống nhất dân
tộc trong câch mạng giải phóng dân tộc ở nước ta.
2- Đầu năm 1930, nắm vững bản chất vấn đề dân tộc, Hồ Chí
Minh đã lập ra Đảng cộng sản Việt
Điểm sáng nổi bật trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là chủ trương chiến
lược chống đế quốc và tay sai giành độc lập, tự do, thực hiện đại đoàn kết dân
tộc. Phong trào cách mạng nổ ra năm 1930 có tính quần
chúng rộng rãi, nhất là những địa phương có phong trào lên đến đỉnh cao nhất
như Nghệ An, Hà Tĩnh đã cuốn hút mạnh mẽ sức mạnh đoàn kết dân tộc, không chỉ
có công nông mà còn có các tầng lớp trí thức, một số sĩ phu, phú nông, trung,
tiểu địa chủ và một số quan lại nhỏ ở nông thôn. Đó là một sự thật lịch sử,
bước đầu minh chứng tính hiện thực về sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc và sự đoàn
kết của nhân dân Việt Nam trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, về tính chân
xác của quan điểm giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, đoàn kết toàn dân chống
đế quốc và tay sai của Hồ Chí Minh.
Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị về vấn đề thành
lập Hội phản đế đồng minh, nhắc lại tư tưởng cách mạng đúng của Cương
lĩnh chính trị đầu tiên, coi việc đoàn kết toàn dân là một trong những nhân tố
thắng lợi của cuộc cách mạng. Chỉ thị phê phán những nhận thức sai lầm trong
Đảng như đã tách rời vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, đã coi nhẹ vai trò của
Hội phản đế đồng minh trong cách mạng ở thuộc địa. Tư tưởng đoàn kết dân tộc
trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, nội dung của Chỉ thị của Ban Thường vụ
Trung ương Đảng chưa được Ban Chấp hành Trung ương Đảng quán triệt, trái lại còn
tiếp tục mắc bệnh “tả” khuynh giáo điều. Khuynh hướng “tả”, biệt phái giai cấp
đó được tiếp tục biểu hiện rõ trong thư của Trung ương gửi cho các cấp đảng bộ
ngày 9-12-1930 và các văn kiện khác của Đảng trong những năm 1931-1935 về sau.
Trong những năm 1936-1939, Đảng Cộng sản Đông Dương đã quyết định vận động
thành lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi, sau gọi là Mặt trận thống nhất
dân chủ để tập hợp các giai cấp, các đảng phái chính trị dù nhỏ bé, bấp bênh
vào cuộc đấu tranh chống bọn phản động thuộc dịa và tay sai, đòi các quyền tự
do dân chủ, cơm áo và hòa bình. Hồ Chí Minh cũng đã truyền đạt cho Ban Chấp
hành Trung ương Đảng chủ trương phải tổ chức mặt trận một cách rộng rãi, phải
đấu tranh không khoan nhượng chống tư tưởng bè phái, biệt lập. Đây là một bước
trưởng thành mới về chủ trương xây dựng Mặt trận thống nhất của Đảng. Cao trào
đấu tranh dân chủ rộng rãi của quần chúng diễn ra trong toàn quốc đã dẫn đến
các hình thức phối hợp và liên minh hành động giữa các giai cấp, đảng phái chính
trị, các đoàn thể quần chúng khác nhau trong từng đợt, từng phong trào đấu
tranh đòi quyền lợi dân chủ và dân sinh. Mặt trận dân chủ “đã bắt đầu thực
hiện từng bộ phận” chứ chưa được hình thành về mặt tổ chức, có hệ thống từ
cơ sở đến trung ương, song đảng đã tích lũy thêm những kinh nghiệm có ý nghia
thực tiễn quan trọng trong cuộc vận động xây dựng mặt trận những năm tiếp theo.
Những kinh nghiệm đó đã được Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư của Đảng tổng kết bước
đầu trong tác phẩm Tự chỉ trích, công bố tháng 7 - 1939.
3- Từ tháng 9-1939 trở đi, các dân tộc ở Đông Dương đứng
trước nguy cơ mất còn, “ Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng
dân tộc nguy vong không lúc nào bằng”. Vì vậy Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng do Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã quyết định giương cao ngọn cờ
dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị đã quyết định lập Mặt trận thống nhất dân tộc
phản đế Đông Dương nhằm mục đích đánh đế quốc Pháp, vua chúa bản xứ và bọn tay
sai của đế quốc phản bội dân tộc; giành lại quyền độc lập hoàn toàn cho cả dân
tộc trên bán đảo Đông Dương (thi hành quyền dân tộc tự quyết).
Sự liên hiệp các dân tộc ở Đông Dương không nhát thiết bắt buộc các dân tộc
phải thành lập một quốc gia duy nhất vì các dân tộc Việt
Vào mùa Xuân năm 1941, Hồ Chí Minh đã được trở về Tổ quốc trực tiếp chỉ đạo Ban
Cháp hành Trung ương Đảng lãnh đạo và tổ chức nhân dân đánh Pháp, đuổi Nhật để
giành lại quyền độc lập, tự do.Trung ương Đảng đã khẳng định và tiếp tục phát
triển tư tưởng cách mạng dân tộc của Hồ Chí Minh, rằng: Nói đến vấn đề dân tộc
là nói đến quyền tự do độc lập của mỗi dân tộc.Dân tộc đó có quyền lựa chọn con
đường giải phóng của mình. Sau khi đánh đuổi Pháp, Nhật, Đảng phải thi hành
đúng chính sách dân tộc tự quyết cho các quốc gia dân tộc ở Đông Dương. Các dân
tộc sống trên bán đảo Đông Dương sẽ tùy ý muốn, tổ chức thành liên bang cộng
hòa dân chủ hay đứng riêng thành lập một quốc gia tùy theo ý muốn của mình.
Hội nghị quyết định nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu, thống nhất lực lượng cách mạng trên toàn cõi Đông Dương, không phân
biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, tiểu tư sản, tư sản bản xứ, trung, tiểu địa
chủ, ai có lòng yêu nước thương nòi vào một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng
rãi, đánh Pháp, đuổi Nhật giành quyền độc lập, tự do cho các dân tộc ở Đông
Dương theo quan điểm thực hiện quyền dân tộc tự quyết. Đối với dân tộc Việt
Vì quyền lợi sinh tồn của dân tộc, Đảng phải nêu cao ngọn cờ dân tộc. Đảng phải
khơi dậy cho hết chí khí cách mạng, tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân
dân, tập trung mọi lực lượng dân tộc để thực hiện nhiệm vụ trung tâm là giải
phóng dân tộc, cứu nước. Cho nên, tổ chức mặt trận đại đoàn kết dân tộc phải có
một tên mới có tính chất dân tộc hơn, có sức mạnh hiệu triệu đồng bào toàn quốc
hơn và nhất là có thể thực hiện được trong tình thế lúc bấy giờ là Việt Nam độc
lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh. Đảng cũng đã ra một nghị quyết về chương
trình của Việt Minh làm cơ sở để tổ chức và lãnh đạo mặt trận.
Công cuộc vận động xây dựng tổ chức Mặt trận Việt Minh đã được triển khai vào
cuộc sống cách mạng của nhân dân ta.
Ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh chính thức ra Tuyên ngôn, kính cáo đồng bào
rằng:
“ Từ khi lập quốc, xét lịch sử nước ta, chưa bao giờ dân tộc ta nhục nhằn, đau
khổ như lúc này…
Nguy cơ diệt vong đã bày ra trước mắt. Hiện thời chúng ta chỉ có một con đường
mưu sống là đoàn kết thống nhất, đánh đuổi Nhật, Pháp, trừ khử Việt gian.
Mở con đường ấy cho đồng bào, “ Việt
Việc giải phóng của ta phải do ta làm lấy.
Ai là người Việt
Chương trình cứu nước của Việt Minh đã nêu rõ, sau khi đánh đuổi được Nhật –
Pháp sẽ lập ra Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Quốc dân Đại hội cử
lên.Chính phủ sẽ thực hiện những chính sách của Việt Minh về chính trị, kinh
tế, văn hóa và xã hội gồm 44 điểm cụ thể cốt đáp ứng hai điều mà toàn thể đồng
bào ta đang mong ước là “ Làm sao cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập;
làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do”.
Tổ chức Việt Minh được Hồ Chí Minh chỉ đạo thí điểm từ đầu năm 1941 ở Cao Bằng,
rồi phát triển nhanh khi Việt Minh được chính thức thành lập. Việt Bắc là nơi
phong trào Việt Minh phát triển mạnh. “Đặc điểm to nhất, đáng chú ý nhất của
Việt Nam độc lập đồng minh ở Việt Bắc là tính chất rộng rãi, rộng rãi đến một
trình độ xưa nay chưa từng thất trong lịch sử cách mạng nước ta; rộng rãi về
phạm vi: từng xã, từng tổng, từng châu, từng huyện đã hoàn toàn tham gia vào
hàng ngũ cách mạng; rộng rãi về mặt thành phần nhân dân: nam, phụ, lão, ấu đều
rầm rộ tham gia vào công tác cứu quốc, chỉ trừ một số rất ít trung lập và phản
động” (4). Tháng 11-1942 Việt Minh Cao Bằng đã mở Đại hội bầu
Ban Chấp hành chính thức của tỉnh. Ban Chấp hành Việt Minh của liên tỉnh Cao
Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn cũng đã được thành lập. Các hội cứu quốc được phát
triển trong cả nước. Hội Văn hóa cứu quốc ra đời cuối năm 1943. Đảng Dân chủ
Việt
Đứng đầu Việt Minh trong toàn quốc là Tổng bộ Việt Minh.
Việt Minh đã thực sự trở thành trung tâm tập hợp, đoàn kết
các giai cấp, đảng phái chính trị và cá nhân yêu nước trong toàn quốc đứng lên
đánh Pháp, đuổi Nhật.
Đảng đã thông qua Việt Minh các cấp để vận động, tổ chức và
lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ trung tâm là chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang
giành chính quyền.
Cuộc khởi nghĩa dân tộc trong cả nước tháng
8-1945 của nhân dân Việt
Mục tiêu cứu nước của Việt Minh đã trở thành hiện thực.
Sự phát triển hoàn thiện về đường lối, chủ trương chiến lược
“ đoàn kết dân tộc” của Đảng dẫn đến sự ra đời của Măt trận Việt Minh 1941.
Sự thành lập và hoạt động của Việt Minh đã trở thành một
nhân tố cơ bản, quyết định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945.
Việt Minh đã ra đời chính ở khu rừng Pác Bó. “ Hai chữ Việt
Minh trong một thời kỳ dài làm nức lòng đồng bào cả nước, Hai chữ Việt Minh còn
mãi mãi trong lịch sử, chói lọi nét vàng”(5) .
Việt Minh là một tổ chức mặt trận tiêu biểu, hoàn chỉnh,
sáng chói như một mốc son đánh dấu sự ra đời của Mặt trận dân tọc thống nhất
trong cách mạng Việt
- Việt Minh ra đời là kết quả của một quá trình vận động
cách mạng ở Việt Nam, kết quả thắng lợi của tư tưởng độc lập, tự do và chiến
lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, của Đảng ta; kết quả của một tư tưởng
khoa học và sáng tạo, kiên quyết khắc phục tư tưởng ấu trĩ, “tả” khuynh, giáo
điều rập khuôn.
- Sự ra đời và hoạt động của Việt Minh gắn liền với tư
tưởng, đường lối chính trị, đường lối tổ chức và sự hoạt động thực tiễn của Hồ
Chí Minh. Người là hiện thân của khối đoàn kết dân tộc vì độc lập, tự do; của
chiến lược:
“ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công”.
- Giương cao ngọn cờ dân tộc, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu
nước và đoàn kết thống nhất dân tộc, dựa vững vào khối liên minh công nông và
trí thức, đoàn kết chân thành với mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ của dân tộc
trong một Mặt trận thống nhất rộng rãi - Mặt trận Việt Minh là một thành công
sáng tạo của Hồ Chí Minh, của Đảng về công tác mặt trận trong cách mạng Tháng
Tám, về chiến lược đại đoàn kết dân tộc trong cách mạng Việt Nam.
Vai trò lịch sử là người sáng lập và lãnh đạo Mặt trận Việt
Minh – Mặt trận dân tộc thống nhất Việt
Nguyễn Tường Bách, một đảng viên Việt Cách thuộc phe đối lập
chống Việt Minh đã viết những lời thán phục sức nổi dậy của Việt Minh để giành
chính quyền năm 1945 như sau: “ Đâu đâu cũng là Việt Minh cả… Tại sao? Đó là
câu tôi tự hỏi. Họ tài thật. Chúng tôi không khỏi thầm phục…Việt Minh đã thắng
khắp nơi. Ngày 2-9, Chính phủ Hồ Chí Minh làm lễ tuyên thệ độc lập ở Quảng
trường Ba Đình. Tôi đã biết… Hồ Chí Minh ngày nay là Nguyễn Ái Quốc mà
chúng tôi vẫn khâm phục như một nhân vật thần kỳ” (7) .
PGS.NGND LÊ MẬU HÃN
CHÚ THÍCH
1- Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB CTQG. H 1995, tập 5, tr.7.
2- Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, tập 3, tr.205.
3- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập
7, tr.459-463.
4- Đảng Cộng sản Việt
5- Hoàng Quốc Việt: Ánh sáng mới từ Pác Bó, Đầu nguồn, tập
hồi ký, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1975,tr.17.
6- Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà
văn hóa lớn, NXB Khoa học Xã hội, H 1995, tr.170.
7- Nguyễn Tường Bách: Việt
Lượt truy câp: 1837307
Trong ngày:
Đang online: 78