Vũ Khoan: "Đổi mới tư duy và chính sách trong lĩnh vực đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam"
[ 27/02/2013 00:04 AM | Lượt xem: 12260 ]

    ĐỔI MỚI TƯ DUY VÀ CHÍNH SÁCH

TRONG LĨNH VỰC ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

 

 

VŨ KHOAN

Đặc phái viên của Thủ tướng Chính phủ

về các vấn đề đối ngoại

 

    Năm 2006 vừa tròn 20 năm nước ta tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo năm 1986. Đường lối đổi mới đã đưa lại những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, không những được toàn dân ta mà còn được cả cộng đồng quốc tế thừa nhận.

   Trong số những thành tựu của công cuộc đổi mới, những thành tựu trên mặt trận đối ngoại là rất to lớn và nổi bật. Từ chỗ bị cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế, nước ta đã khôi phục và mở rộng quan hệ hợp tác với hầu hết các nước trên thế giới, kể cả các nước và trung tâm lớn; nhiều vấn đề khúc mắc với các nước được dàn xếp, hầu hết các vấn đề biên giới trên đất liền và trên biển xung quanh nước ta đã được giải quyết; kim ngạch xuất khẩu gia tăng nhanh chóng, chiếm tới trên dưới 60% GDP; vốn nước ngoài, bao gồm cả đầu tư trực tiếp lẫn viện trợ phát triển ngày một nhiều, trong 5 năm 2001-2005 chiếm trên 30% tổng số vốn đầu tư của xã hội; hàng năm hàng triệu khách du lịch tới thăm Việt Nam...

   Nước ta không những là một thành viên đầy trách nhiệm mà còn đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nhiều tổ chức khu vực và toàn cầu. Việc nước ta đã  từng đăng cai và điều hành thành công các hội nghị cấp cao của Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp, ASEAN, ASEM và gần đây nhất là APEC, được kết nạp vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và được các nước châu Á nhất trí đề cử làm uỷ viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc khoá 2008-2009 là những minh chứng hùng hồn về vị thế mới của nước ta.

   Có thể nói, chưa bao giờ nước ta có mối quan hệ quốc tế sâu rộng như ngày nay, những thành công trên mặt trận đối ngoại đã góp phần cực kỳ quan trọng vào việc tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi chưa từng có cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao đáng kể vị thế của đất nước ở khu vực và trên thế giới.

   Có được những thành tựu ấy một phần quan trọng, nếu như không nói là quyết định, là nhờ Đảng ta đã có những nhận thức mới và chủ trương mới trong lĩnh vực này.

I. Đổi mới tư duy về xu thế  phát triển của thế giới

    Để hoạch định được đường lối và chính sách đối ngoại đúng đắn, điều có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là nhận thức tương đối chuẩn xác những xu thế phát triển của thế giới khách quan. Việc này thật không đơn giản chút nào vì tình hình thế giới vốn rất đa dạng, biến động không ngừng; hơn thế nữa vào những năm nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới đã diễn ra những biến động đầy kịch tính trên thế giới, liên quan tới sự sụp đổ hệ thống XHCN ở các nước Đông Âu, nhất là ở Liên Xô. Hơn thế nữa những nguyên nhân sâu xa dẫn đến những hiện tượng, chiều hướng này hay những hiện tượng, chiều hướng khác trong sinh hoạt quốc tế thường bắt nguồn trong chiều dày lịch sử, ẩn sâu trong những nhân tố chủ quan và khách quan không dễ gì nắm bắt.

   Mặc dầu vậy, song song với việc đánh giá tình hình và lần tìm chủ trương thích hợp để đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội nghiêm trọng vào những năm 80 của thế kỷ trước, Đảng ta đã dành nhiều công sức và trí tuệ để đánh giá lại cục diện thế giới, xác định đường lối và chính sách đối ngoại trong tình hình mới vì những nhân tố ''bên trong'' và ''bên ngoài'' luôn luôn liên quan mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau.

    1. Trước sự khủng hoảng sâu sắc của CNXH thế giới vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ trước, một vấn đề có tính nguyên tắc nhưng lại cực kỳ khó khăn là đổi mới tư duy về nội dung và chiều hướng thời đại vì như V.I.Lênin đã nói: ''Chỉ có trên cơ sở này, nghĩa là trước hết xem xét những nét khác nhau cơ bản của các thời đại (chứ không phải của các giai đoạn lịch sử cá biệt ở các nước) thì chúng ta mới có thể định ra đúng đắn sách lược của chúng ta''1. Quả thật, nếu không làm rõ được tính chất của thời đại thì cũng không thể xác định được phương hướng tiến lên của đất nước, không thể tập hợp được quảng đại quần chúng, không thể định ra chính sách đối nội, đối ngoại phù hợp, không thể đấu tranh có hiệu quả với các tư tưởng và hành vi thù nghịch với đất nước và chế độ.

    Bất chấp những sóng gió lúc đó, với thái độ bình tĩnh, tỉnh táo, dựa trên sự phân tích khoa học, trong Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội VII, Đảng ta đã khẳng định: ''Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử''2. Đại hội VIII của Đảng tiếp tục nêu: ''Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất thời đại; loài người vẫn đang trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội''3. Đại hội IX một lần nữa nhấn mạnh: ''Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ  tiến tới chủ nghĩa xã hội''4.

    Cách đề cập như vậy không có gì là khiên cưỡng vì lịch sử loài người đã từng chứng kiến sự chuyển tiếp các hình thái kinh tế và chính trị-xã hội từ nô lệ sang phong kiến, tư bản rồi tiếp đến là XHCN mở đầu bằng Cách mạng tháng Mười Nga. Động lực của những sự chuyển tiếp mang tính cách mạng ấy là tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất luôn luôn đòi hỏi quan hệ sản xuất phù hợp. Bên cạnh đó tuỳ hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể ở nước này hay nước khác đã xuất hiện những tình huống cách mạng đưa tới thắng lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của ĐCS. Trên thực tế, CNXH hiện thực đã từng tồn tại và phát triển ở cả ba châu lục Á, Âu, Mỹ Latinh và ngày nay vẫn tiếp tục tiến bước ở một loạt quốc gia; tư tưởng XHCN vẫn là lý tưởng của triệu triệu con người ngay trong lòng các nước tư bản.

    Đảng ta đã chỉ rõ sự khủng hoảng của chế độ XHCN ở Liên Xô - Đông Âu không đồng nghĩa với sự cáo chung của học thuyết XHCN khoa học; nó chỉ bộc lộ những sai lầm, lệch lạc trong việc vận dụng học thuyết đó như bệnh chủ quan duy ý chí, đốt cháy giai đoạn, xem thường các quy luật kinh tế khách quan, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xem thường sản xuất hàng hoá và quy luật giá trị cũng như tác dụng của cơ chế thị trường, chậm trễ trong việc ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại, làm cho nền kinh tế trì trệ, đời sống nhân dân chậm được cải thiện. Bên cạnh đó, ở không ít nước đã để xảy ra tình trạng xem thường việc xây dựng nhà nước pháp quyền, lạm dụng quyền lực, hạn chế dân chủ, giải quyết không thoả đáng mối quan hệ dân tộc, gây bất bình trong nhân dân; bản thân nội bộ Đảng đã mắc nhiều sai lầm về đường lối chính trị - tư tưởng và tổ chức. Các thế lực thù nghịch với CNXH đã thành công trong việc khai thác những sai lầm, lệch lạc nảy sinh trong lòng các  nước XHCN, tác động vào nội bộ, làm mất uy tín của Đảng và chế độ, kích động bạo loạn và hoạt động lật đổ...

    Mặt khác, Đảng ta đã mạnh dạn điều chỉnh một số nhận thức trước đây không còn phù hợp. Một là, khác với nhận định về tính chất thời đại được nêu lên tại HNTƯ 9, Khoá III năm 1963, Đảng ta không coi sự thắng lợi của CNXH và CNCS trên phạm vi toàn thế giới như một khả năng trực tiếp mà nhấn mạnh tính phức tạp, lâu dài của con đường tiến tới những mục tiêu đó. Hai là, đối với CNTB, một mặt Đảng ta chỉ ra bản chất và những mâu thuẫn trong lòng chúng, mặt khác nhìn nhận một cách khách quan khả năng của CNTB thích nghi với những biến đổi của thời cuộc, từ đó không còn coi sự sụp đổ của CNTB thế giới như một khả năng xảy ra trong tương lai gần.

    Điều quan trọng nữa là Đảng ta đã rút ra những bài học từ sự khủng hoảng của CNXH thế giới và của bản thân, từ đó xác định những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới ở nước ta, ngày càng làm rõ hơn con đường đi lên CNXH và vạch ra những nguy cơ đối với CNXH ở Việt Nam.

    2. Đi đôi với sự đổi mới tư duy trong nhận thức về thời đại, Đảng ta có nhiều sự đổi mới trong nhận thức về những mâu thuẫn của thời đại. Bác bỏ những quan điểm siêu hình cho rằng, trong thời kỳ ''hậu chiến tranh lạnh'', toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc đề cập tới mâu thuẫn của thời đại là ''lỗi thời'' là ''giáo điều'', ''xơ cứng'', Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh rằng, những mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển, thậm chí có mặt sâu sắc hơn. Thực tế khách quan cũng khẳng định hùng hồn điều đó. Kể từ khi ''chiến tranh lạnh'' trên danh nghĩa kết thúc, không có ngày nào loài người được sống yên bình, luôn luôn phải đối mặt với những mâu thuẫn, khủng hoảng.

    Mặt khác cũng phải thấy rằng, nội dung và hình thức biểu hiện của những mâu thuẫn khách quan trên thế giới có nhiều nét mới. So với NQTƯ 9 Khoá III năm 1963, Đảng ta đã đổi mới tư duy chí ít là trên những khía cạnh sau:

   - Thay vì nêu mâu thuẫn giữa ''phe xã hội chủ nghĩa và phe đế quốc chủ nghĩa'', nay Đảng ta đề cập tới mâu thuẫn ''giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đang diễn ra gay gắt''5. Điều này không chỉ liên quan tới sự tan rã của phe XHCN mà còn vì cách đề cập mới bao quát được cả cục diện đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng ngay trong lòng mỗi quốc gia và trên phạm vi toàn thế giới.

   - Thay vì chỉ nêu mâu thuẫn ''giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản'' trong lòng các nước tư bản, nay Đảng ta vạch rõ ''mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng sâu sắc'' đi đôi với mâu thuẫn ''giữa các tầng lớp nhân dân rộng rãi với giai cấp tư sản, giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản lớn tiếp tục phát triển''6. Cách tiếp cận mới đó phản ánh bao quát hơn, sâu sắc hơn bức tranh toàn cảnh ở các nước TBCN khi nhiều tầng lớp nhân dân, chứ không chỉ giai cấp công nhân tham gia cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ; các tập đoàn độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản lớn giành giật nhau gay gắt, nhiều khi đưa tới các cuộc xung đột, các cuộc chiến tranh kinh tế - thương mại khốc liệt.

   - Thay vì chỉ ra mâu thuẫn ''giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân'', nay Đảng ta nêu ''mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển tăng lên''7 vì ngày nay về hình thức hầu hết các nước thuộc địa cũ đã giành được độc lập.

    - Thay vì nhấn mạnh ''hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người'', nay Đảng ta chỉ rõ ''những sự vận động của tất cả những mâu thuẫn đó và sự đấu tranh của nhân dân lao động các nước sẽ quyết định số phận của chủ nghĩa tư bản''8 vì hệ thống XHCN thế giới có còn tồn tại và có hùng mạnh đến đâu đi nữa cũng không thể ''xuất khẩu cách mạng”, thay thế cho sự vận động của những mâu thuẫn trong lòng CNTB, làm thay nhân dân lao động của chính các nước đó.

     3. Đi liền với nhận thức mới về tính chất và mâu thuẫn thời đại, Đảng ta đã có sự đổi mới tư duy sâu sắc về vấn đề hoà bình và chiến tranh - một vấn đề cực kỳ hệ trọng đối với vận mệnh của các dân tộc, trong đó có dân tộc ta, đồng thời ảnh hưởng sâu sắc tới việc hoạch định và thực hiện chính sách đối ngoại.

     Nếu như HNTƯ 9, Khoá III còn đánh giá rằng, nhân dân các nước đang đứng trước nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới mới, thậm chí Đại hội VI vẫn còn cho rằng, chưa bao giờ nguy cơ chiến tranh hạt nhân lại lớn như hiện nay, thì Đại hội VIII đã nhận định ''Nguy cơ chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy lùi''9 và Đại hội IX còn tiến xa hơn nữa khi đưa ra nhận định ''Trong vài thập kỷ tới, ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới''10.

      Những đánh giá trên bắt nguồn từ nhận thức và khát vọng của nhân dân thế giới đối với hoà bình, ổn định và phát triển; về cục diện mới khi trong số các nước đế quốc vốn là nguồn gốc gây ra hai cuộc chiến tranh thế giới trong thế kỷ XX đã nổi lên một siêu cường đang còn có khả năng kiềm chế các nước khác, giữa chúng với nhau đã hình thành những cơ chế cần thiết để điều tiết mâu thuẫn xung đột; phương tiện chiến tranh đã thay đổi, làm cho các nước gây ra chiến tranh thế giới cũng chịu mối đe dọa bị huỷ diệt.

Đồng thời, Đảng ta cũng chỉ ra tình hình xung đột, chiến tranh cục bộ, xung đột quân sự, chạy đua vũ trang, can thiệp lật đổ, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, đối đầu về tôn giáo, sắc tộc, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia... gia tăng.

     4. Một sự đổi mới tư duy quan trọng khác là Đảng ta đã có cách tiếp cận mới về xu thế phát triển mới của nền kinh tế thế giới. Bên cạnh việc nhấn mạnh tầm quan trọng của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ diễn ra như vũ bão, ngay từ Đại hội VI Đảng ta đã chỉ ra xu thế quốc tế hoá của nền kinh tế thế giới và sự hình thành một thị trường toàn cầu; tiếp đến Đại hội IX đã chỉ rõ xu thế toàn cầu hóa là xu thế khách quan.

     Thực ra, một thuộc tính của sản xuất hàng hoá là vượt khỏi biên giới quốc gia, tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Ngày nay tỷ suất hàng hoá của thế giới tăng rất cao, chiếm tới 25% giá trị hàng hoá sản xuất ra, tiền vốn dư thừa tương đối; bên cạnh đó, nhờ cách mạng khoa học-công nghệ phát triển mạnh mẽ, nhất là công nghệ thông tin và vận tải nên có khả năng chuyển tải rất nhanh và rất rẻ; sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu, một sản phẩm thường được sản xuất ở nhiều quốc gia để tận dụng lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả; hàng vạn công ty xuyên quốc gia (TNC) ra đời và hoạt động trên toàn cầu; tất cả các nước, kể cả các nước XHCN như nước ta và Trung Quốc, đều thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với kinh tế thế giới, chấp nhận luật chơi chung, do đó hàng hoá, dịch vụ, tư bản, công nghệ, thông tin, lao động đều lan toả ra toàn cầu.

     Nhờ xu thế này mà các nước có thể mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ, tranh thủ thêm vốn đầu tư, công nghệ, thông tin, tìm kiếm việc làm để phát triển. Đó là mặt tích cực của xu thế toàn cầu hoá. Mặt khác, Đảng ta cũng chỉ rõ rằng, xu thế này ẩn chứa nhiều mặt tiêu cực vì dù sao đi nữa các nước tư bản phát triển vẫn nắm vai trò chủ đạo trên thị trường thế giới, do đó quy luật ''cá lớn nuốt cá bé'' vẫn hoành hành.

    II. Đổi mới trong đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng

    Xuất phát từ những nhận thức mới về thời đại và những xu thế chủ yếu trong thế giới ngày nay, từ yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đã có những đổi mới rất sâu sắc về đường lối và chính sách đối ngoại.

    Điều có tầm quan trọng hàng đầu là xác định chuẩn xác mục tiêu của đường lối, chính sách đối ngoại. Đối với nước nào cũng vậy, hoạt động đối ngoại không theo đuổi những mục đích tự thân mà là sự nối tiếp của chính sách đối nội, phục vụ 3 yêu cầu gắn bó mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau là ''an ninh'', ''phát triển'' và ''vị thế quốc tế” của đất nước. Đối với nước ta sau ngày thống nhất đất nước, mục tiêu của đường lối đối ngoại luôn luôn được xác định là phục vụ cho hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nói một cách khác, mục tiêu của đường lối đối ngoại bao gồm: nghĩa vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế.

    Cái mới là khi bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta coi việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Điều đó cũng dễ hiểu vì một khi đất nước đã giành được độc lập, thống nhất đồng thời lại đứng trước nguy cơ tụt hậu về trình độ phát triển kinh tế so với nhiều nước khác thì nhiệm vụ trung tâm của nước ta là phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách đối ngoại tất yếu phải phục vụ cho nhiệm vụ trung tâm này.

    Ở đây cần nhấn mạnh rằng, hai nhiệm vụ chiến lược xây và bảo vệ Tổ quốc luôn luôn gắn bó mật thiết với nhau; nước không mạnh thì khó bề củng cố lực lượng vũ trang về mặt bị kỹ thuật để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, nhất là trong hoàn cảnh ngày nay không thể trông mong vào sự tài trợ vật chất từ bên ngoài cho sự nghiệp này, mặt khác không bảo vệ được an ninh cho Tổ quốc thì cũng không thể có điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển kinh tế. Đồng thời cũng cần nói rõ rằng, cách đặt vấn đề như trên hoàn toàn không có nghĩa là Đảng ta rơi vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chỉ khư khư chăm lo cho lợi ích của nước mình; trên thực tế chúng ta luôn luôn cố gắng đóng góp vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ của nhân dân thế giới dưới hình thức thích hợp.

    Để đạt được mục tiêu chủ yếu trong đường lối đối ngoại, điều có ý nghĩa rất quan trọng là xác định chuẩn xác tư tưởng chỉ  đạo. HNTƯ 3 (Khóa VII) đã nhấn mạnh tư tưởng “giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạonăng động, linh hoạt phù hợp với vị trí và hoàn cảnh của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng ta có thể quan hệ”.

    Cách đặt vấn đề như vậy vừa phản ánh một đặc điểm nổi bật của ''trường phái ngoại giao Việt Nam'' từ ngàn xưa theo tinh thần ''lạt mềm buộc chặt'', được phát triển lên thành nghệ thuật trong thời đại Hồ Chí Minh với phương châm ''dĩ bất biến, ứng vạn biến'', vừa phản ánh thực tế rất đa dạng, đầy biến động trong thế giới ngày nay. Thực tiễn mấy chục năm qua chứng tỏ rõ rệt rằng, ngoại giao Việt Nam chỉ giành thắng lợi một khi quán triệt hai mặt gắn quyện chặt chẽ với nhau: giữ vững nguyên tắc đi đôi với vận dụng sách lược linh hoạt.

    Phù hợp với cách đề cập trên, tiếp nối tư tưởng ''thêm bạn bớt thù”, tính đến thực tế khách quan hết sức đa dạng trong thế giới ngày nay, Đảng ta đã xác định một phương châm nay trở nên rất quen thuộc là ''đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế”. Đa dạng hóa, đa phương hóa ở đây được hiểu là trên cả ba mặt: đối tượng, hình thức quan hệ và chủ thể tham gia.

    Về đối tượng quan hệ, Đại hội VII đã đưa ra khẩu hiệu ''Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới; phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển'' và Đại hội IX bổ sung thêm ý Việt Nam không chỉ sẵn sàng là bạn mà còn sẵn sàng là ''đối tác tin cậy'' của các nước trong cộng đồng quốc tế.  Tiếp đó, NQTƯ 8 (Khóa IX) đã đưa ra một khái niệm rất mới mẻ về đối tượng và đối tác, phân tích một cách biện chứng rằng, trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác vẫn có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta. Trên tinh thần đó chúng ta đã ra sức thiết lập và phát triển quan hệ với mọi quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp công việc nội bộ của nhau. Cũng với tinh thần ấy, chúng ta đã thiết lập quan hệ ở mức độ khác nhau với nhiều đảng phái, tổ chức, lực lượng khác nhau.

    Đi đôi với cách tiếp cận trên chúng ta theo đuổi một phương châm khác là: trong quan hệ quốc tế luôn luôn có hai mặt hợp tác và đấu tranh. Về phần mình, chúng ta luôn luôn mong muốn và ra sức thúc đẩy mặt hợp tác bình đẳng cùng có lợi song cũng không chấp nhận và kiên quyết đấu tranh với những hành vi xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của nước ta. Chúng ta tiến hành cuộc đấu tranh này không để phá vỡ sự hợp tác mà nhằm làm cho sự hợp tác lành mạnh hơn.

    Điều đó không có nghĩa là chúng ta theo chủ nghĩa trung dung, thái độ ba phải, không phân biệt trắng đen. Chúng ta vẫn phải lấy thước đo giai cấp và dân tộc để phân biệt phải trái, song trong hành xử thì tình hình thực tế và lợi ích của đất nước đòi hỏi phải có cách tiếp cận hết sức biện chứng và linh hoạt, lấy lợi ích cao nhất của dân tộc làm thước đo.

    Về hình thức quan hệ, ngoại giao ngày nay không chỉ tập trung vào quan hệ chính trị mà các nội dung kinh tế, văn hóa và quốc phòng - an ninh chiếm vị trí ngày càng quan trọng. Các mối quan hệ này gắn quyện với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ chính trị (bao gồm cả quốc phòng - an ninh) là tiền đề, quan hệ kinh tế là cơ sở, quan hệ văn hóa là nhân tố góp phần gia tăng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc.

    Cái mới nữa là trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa, bên cạnh quan hệ song phương, quan hệ đa phương thể hiện trong sự giao lưu trên các diễn đàn, tổ chức đa phương có vai trò rất lớn. Không phải ngẫu nhiên mà trong thời gian qua Nhà nước ta đã gia nhập và tích cực hoạt động trong hàng loạt tổ chức khu vực và quốc tế, đóng góp phần mình vào việc bảo vệ hòa bình, chủ quyền của các dân tộc, thiết lập trật tự chính trị và kinh tế quốc tế dân chủ và bình đẳng, đẩy mạnh hợp tác vì sự phát triển.

    Một hướng mới rất quan trọng nữa là các đại hội VIII và IX đã đặt cao nhiệm vụ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế do nhu cầu nội tại của nền kinh tế nước ta cần mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn và công nghệ phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH cũng như từ nhận thức về xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. Đến Đại hội X (2006), Đảng ta nêu rõ: “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn với khu vực và thế giới”11.

    Về các chủ thể tham gia thì nước ta vốn có truyền thống huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị cùng tham gia các hoạt động đối ngoại. Ngày nay truyền thống ấy vẫn được phát huy với nétmới là: cùng với các hoạt động của Đảng, Chính phủ, Quốc hội và các đoàn thể chính trị-xã hội, các hiệp hội ngành nghề, các cơ quan quốc phòng-an ninh, các địa phương, các doanh nghiệp cũng rầm rộ ''vào trận''.

    Trong thời kỳ đổi mới, với nhận thức ''họ hàng xa không bằng láng giềng gần'' chúng ta luôn dành ưu tiên cao cho việc xây dựng và củng cố quan hệ láng giềng hữu nghị với các nước láng giềng trên cả ba tầng nấc: các nước có chung biên giới, các nước trong khu vực Đông Nam Á và các nước châu Á và Thái Bình Dương. Nói một cách khác, ưu tiên hàng đầu của chúng ta là tạo ra môi trường quốc tế liên quan trực tiếp nhất tới sự ổn định và sự phồn vinh của nước ta.

     Mặc dầu trước sau như một chúng ta luôn phấn đấu cho sự bình đẳng giữa các quốc gia, song có một thực tế là các nước và các trung tâm lớn vẫn đóng vai trò rất quan trọng trong thế giới ngày nay, kể cả đối với an ninh và sự phát triển của nước ta, do đó chúng ta không thể không dành mối quan tâm thoả đáng tới quan hệ với họ.

    Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta xem nhẹ mối quan hệ với các nước, các lực lượng cách mạng và tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình và công lý vốn có quan hệ truyền thống với nước ta, đã từng hết lòng ủng hộ, giúp đỡ nhân dân ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, thống nhất đất nước. Với nhận thức như vậy chúng ta không những không lãng quên bạn bè mà còn làm mọi việc có thể để không ngừng củng cố quan hệ hợp tác, hữu nghị với các nước và các lực lượng này.

     Trên đây là một số sự đổi mới trong nhận thức về thế giới đương đại cũng như trong đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới. Do khuôn khổ bài viết có hạn nên chỉ có thể đề cập dưới dạng giản lược. Hơn nữa, tình hình thế giới còn diễn biến hết sức phức tạp, nên không thể nghĩ rằng mọi việc đều đã an bài, những nhận thức và chủ trương có được đã là chân lý. Trái lại, cuộc sống đòi hỏi phải luôn luôn bám sát thực tế, vận dụng sáng tạo phương pháp luận khoa học để đánh giá ngày càng sâu sắc và chuẩn xác hơn cục diện thế giới, đề ra đường lối, chính sách hoàn chỉnh hơn, phục vụ đắc lực hơn hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công cuộc CNH, HĐH, vươn tới mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh'' theo định hướng XHCN.

 

 1. V.I.Lênin Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, T.26, tr.174

2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới( Đại hội VI,VII, VIII, IX), CTQG, H, 2005, tr.314, 463, 618, 313, 313, 314, 314, 463,618

11. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, CTQG, H, 2006, tr.204.

 

Nguồn: Tạp chí Lịch sử Đảng

Khoa Khoa học xã hội & Nhân văn

(0208).3848.976
Loading the player ...

Liên kết website

Thống kê website

Lượt truy câp: 1837307
Trong ngày:
Đang online: 8