Đà Nẵng trong ý đồ chiến lược của tư bản Pháp trước chiến tranh xâm lược Việt nam (1858)
[ 23/02/2013 17:52 PM | Lượt xem: 2672 ]

ĐÀ NẴNG TRONG Ý ĐỒ CHIẾN LƯỢC CỦA TƯ BẢN PHÁP TRƯỚC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC VIỆT NAM (1858)(*)

 

GS. Đinh Xuân Lâm

 

Có một cuốn sách mới xuất bản ở Mỹ của một tác giả Việt kiều yêu nước viết về vị trí quan trọng của nước Việt Nam trên bản đồ khu vực và thế giới như sau: "Do vị trí địa lý, nước Việt Nam nằm vào một trong những ngã tư đường lớn của châu Á. Nước này... bám vào sườn châu Á, vào giữa bán đại lục Ấn Độ và các nước Viễn Đông, như một bàn tay của châu Á xoè rộng ra ngoài Thái Bình Dương; đất nước này tiếp nhận ảnh hưởng của các quốc gia láng giếng và làm bàn đạp cho các dân tộc, sau khi đi xuyên ngang qua, sẽ toả ra các đảo Nam Thái Bình Dương"[1].

Với vị trí đặc biệt đó, không lạ gì Việt Nam từ rất sớm đã là đối tượng nhòm ngó, điều tra thám sát, tiến tới chiếm đoạt khi có thời cơ của nhiều nước tư bản phương Tây trên bước đường bành trướng. Cho nên hết tàu máy Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh, cả Hoa Kỳ, và cuối cùng là Pháp đều đã từng lai vãng vùng biển Đông của Việt Nam.

Vị trí của Việt Nam trong khu vực và thế giới là như vậy. Còn trên bản đồ Việt Nam, Đà Nẵng có vị trí như thế nào? Rõ ràng là so với các vị trí khác dọc theo bờ biển từ Bắc chí Nam, Đà Nẵng có điều kiện tốt để tư bản phương Tây sớm để ý tới. Nằm ngay trên con đường giao thương hàng hải quan trọng, cảng Đà Nẵng ở Đàng Trong, từ rất sớm, đã có nhiều tàu bè nước ngoài lui tới buôn bán. Sau lưng cảng là một hậu phương rộng lớn của Quảng Nam với dân số đông, tài nguyên trên rừng, dưới đất, ngoài biển phong phú, lại có nhiều nghề thủ công nổi tiếng có thể cung cấp hàng xuất khẩu (như tơ lụa, quế, trầm hương...). Những điều kiện thiên nhiên và con người như vậy đã có sức hấp dẫn mạnh đối với các thương nhân nước ngoài. Đặc biệt dưới thời chúa Nguyễn, Quảng Nam - Đà Nẵng và Hội An đã có lúc trở thành những trung tâm kinh tế phồn thịnh. Đó là chưa nói tới ưu thế về mặt quân sự mà tư bản phương Tây muốn khai thác: cảng Đà Nẵng tương đối sâu, tàu bè lớn dễ hoạt động, sau khi đổ bộ lên đất liền có thể đánh sâu vào nội địa, tốc chiến tốc thắng thực hiện chiếm đóng toàn vùng, đồng thời có thể dùng đường đèo Hải Vân đánh thốc ra Huế chỉ cách có 100 cây số về phía Đông - Bắc để buộc triều đình Huế đầu hàng tại chỗ, kết thúc nhanh chóng cuộc chiến tranh xâm lược trên thế toàn thắng của chúng.

Nói riêng về tư bản Pháp, với hoạt động kiên trì của một số gián điệp đội lốt thầy tu và thương nhân, họ ngày càng có cơ sở vững chắc về tinh thần và vật chất ở các vùng sâu trong đất liền. Năm 1748, công ty Ấn Độ đã giao cho Poa-vơ-rơ (Pierre Poivre), mới từ Viễn Đông về, mang theo một dự án báo cáo chi tiết các tài nguyên của Việt Nam và yêu cầu thành lập ở Việt Nam một thương điếm. Đặt chân tới Đà Nẵng vào năm 1749 và sau đó ra kinh thành Huế, Poa-vơ-rơ đã được chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát nhiệt tình đón tiếp, nhưng rồi cuộc vận động của ông ta đã không mang lại kết quả.

Sau Hiệp ước Pa-ri (1763)[2], một Hội đồng mới được thành lập để đẩy mạnh việc tuyên truyền vận động thiết lập các cơ sở của Pháp ở Nam Kỳ. Nhưng cũng phải đợi đến khi giám mục xứ đạo A-đrăng (xứ Pigneau de Béhaine) nhân danh Nguyễn Ánh để tiếp xúc với triều đình Lu-y XVI (Louis XVI) và ký kết bản Hiệp ước Véc-xay (Versailles) ngày 28-11-1787 thì số phận của Đà Nẵng mới được định đoạt. Khi điều đình với phía Pháp, giám mục xứ đạo A-đrăng (Adran) đã xuất trình biên bản cuộc họp của Đại hội đồng Vương quốc Đàng Trong với những quyết nghị vô cùng tai hại cho Đà Nẵng. Quyết nghị 8 ghi rõ: "Đức giám mục xứ đạo A-đrăng sẽ được giao nhiệm vụ nhân danh nhà vua và Hội đồng của nhà vua cắt nhượng và giao hẳn cho hoàng đế nước Pháp, với đầy đủ và toàn vẹn  vương quyền, hòn đảo nằm phía ngoài cảng chính của xứ Đàng Trong được người châu Âu gọi là cảng Tua-ran (Tourane) và bởi người Đàng Trong gọi là Hội An, để đặt tại đấy những cơ sở theo cung cách và hình thức mà hoàng đế nước Pháp sẽ nhận thấy là tiện lợi nhất". Liền sau đó, Quyết nghị 9 còn ghi thêm: "Sẽ thoả thuận cấp cho nước Pháp, cùng chung với những dân xứ Đàng Trong, quyền sở hữu cửa cảng nói trên, để có thể cất giấu, sửa chữa và đóng các tàu bè mà triều đình nước Pháp xét thấy cần thiết"[3]. Trên đà đó, đến nội dung Hiệp ước Véc-xay (28-11-1787) - văn bản ngoại giao đầu tiên ký kết giữa Việt Nam với Pháp - phía Việt Nam do giám mục xứ đạo A-đrăng đại diện, phía Pháp do bá tước Mông-mô-ranh (Montmorin) thay mặt vua Lu-y XVI, có điều khoản 3: "Đức vua Nam Kỳ trong khi chờ có sự giúp đỡ quan trọng mà nhà vua vô cùng kính chúa (chỉ hoàng đế nước Pháp) sẵn sàng mang lại, sẽ tuỳ theo tình hình cắt nhượng cho đức vua cũng như triều đình nước Pháp, quyền sở hữu tuyệt đối và chủ quyền của hòn đảo là cảng chính của xứ Đàng Trong có tên gọi là Hội An và người Pháp gọi là Tua-ran, quyền sở hữu và chủ quyền này sẽ là vĩnh viễn ngay từ lúc quân Pháp chiếm đóng hòn đảo nói trên".

Tiếp theo là điều khoản 4 xác nhận: "Được thoả thuận thêm rằng đức vua rất kính chúa cùng nhà vua Đàng Trong sẽ chung quyền sở hữu cảng nói trên và người Pháp sẽ có thể xây dựng trên đất liền tất cả các nhà cửa, doanh trại mà họ xét thấy cần thiết, vừa cho sự đi lại đường biển và thương nghiệp, vừa cho việc bảo vệ, sửa chữa và đóng tàu bè của họ. Còn việc trị an trên cảng sẽ được giải quyết tại chỗ bởi một qui ước đặt biệt".

Thế nhưng, Cách mạng Pháp năm 1789 bùng nổ đã làm phá sản ý đồ xâm nhập của Pháp. Sau đó, trên đường từ Pháp trở lại Việt Nam, giám mục xứ A-đrăng đã dựa vào sự giúp đỡ của các thương gia Pháp giàu có ở Ấn Độ để tổ chức một đội quân 300 người, gồm phần lớn là những phần tử phiêu lưu, do các sĩ quan Pháp chỉ huy, thực hành trót lọt chuyến hành trình, đến tháng 7-1789 thì cập bến Sài Gòn an toàn. Sài Gòn, trước  đó đã được Nguyễn Ánh, bằng lực lượng riêng của mình, chiếm lại từ tay quân Tây Sơn năm 1788.

Nhìn lại lịch sử, rõ ràng Hiệp ước Véc-xay (1787) đã hoàn toàn bị bỏ rơi ngay sau khi ký kết. Chính phủ Pháp, về mặt pháp lý, hoàn toàn không có tư cách gì để can thiệp vào Việt Nam. Thế nhưng tham vọng của nhà cầm quyền Pháp thời kỳ đó đối với Việt Nam là thường trực, những khi có khó khăn thì tạm gác lại, đến khi có cơ hội lại mang ra thảo luận, bàn bạc để mưu lợi.

Chính Gia Long, sau khi lên ngôi hoàng đế (1802), cũng đã phải đề cao cảnh giác trước âm mưu bành trướng của tư bản Pháp thông qua hoạt động ngày càng ráo riết của các gián điệp đội lốt giáo sĩ và thương nhân, nhất là lúc này chúng lại có tay trong là Se-nhô (Chaigneau), nay đã trở thành đại thần của triều đình Huế. Đến khi Gia Long mất, trước những hoạt động ngày càng lộ liễu và trắng trợn của người Pháp, các vua Minh Mạng, Thiệu Trị lại có biện pháp sai lầm là bắn giết các giáo sĩ và giáo dân.

Tình hình ngày càng thêm căng thẳng. Ngày 14-4-1847, hai tàu chiến Pháp do thiếu tá La-pi-e (Lapierre) chỉ huy đã nổ súng bắn chìm ở ngoài khơi Đà Nẵng các tàu chiến của triều đình đang bao vây chúng. Vua Thiệu Trị, để phản ứng lại hành động khiêu khích trên, đã ra lệnh xử tử những người châu Âu bị bắt trên lãnh thổ Việt Nam. Chính sách này được vua Tự Đức tiếp tục thi hành, và quan hệ giữa hai nước Việt Nam với Pháp từ đó là quan hệ giữa hai nước có chiến tranh.

Trong tình hình đó, hoàng đế Pháp Na-pô-lê-ông III (Napoléon III) đã quyết định trực tiếp can thiệp vào Việt Nam bằng cách uỷ nhiệm cho Mông-ti-nhi (Montigny) tiếp xúc với triều đình Huế để nối lại cuộc đàm phán và chấm dứt chính sách khủng bố các giáo sĩ. Để chuẩn bị cho chuyến đi này, cuối năm 1865, tàu chiến Ca-ti-na (Catinat) đã cập bến Đà Nẵng và sau khi bị triều đình cự tuyệt không giao thiệp, đã nổ súng trước lúc rút lui. Chính giữa lúc đó, vào tháng 1-1857, Mông-ti-nhi đến yêu cầu được tự do buôn bán và có sự đối xử tốt hơn với các giáo sĩ.

Triều đình Huế vẫn cương quyết cự tuyệt. Cũng nói thêm là ngay khi Mông-ti-nhi vừa tới Đà Nẵng thì linh mục Húc (Huc), nguyên là giáo sĩ truyền giáo tại Trung Quốc, đã gửi cho Na-pô-lê-ông III một bức thư dài thúc dục hành động, nhấn mạnh tới vị trí chiến lược của Đà Nẵng. Sau đây là một vài đoạn của bức thư đó:

"Viễn Đông sắp biến thành sân khấu của nhiều sự kiện lớn. Nếu hoàng thượng muốn, nước Pháp có thể đóng một vai trò rất quan trọng và vinh quang ở đây (...). Đà Nẵng trong tay người Pháp sẽ là một hải cảng bất khả xâm phạm và là một căn cứ quan trọng nhất để làm chủ mọi vấn đề vùng Thượng Á (chỉ Trung Quốc, Tác-ta-ri (Tartarie), Tây Tạng) (...). Nước Anh đang chăm chú nhìn về Đà Nẵng. Họ sẽ đi trước chúng ta nếu như họ biết rõ những quyền lợi của chúng ta ở đây (ý muốn nhắc tới Hiệp ước Véc-xay năm 1787) và biết chúng ta đang có một dự kiến chiếm đóng vùng này"[4].

Na-pô-lê-ông III, sau khi xem lá thư trên, đã thành lập một tiểu ban để nghiên cứu xem nước Pháp có thể căn cứ vào các điều khoản của Hiệp ước Véc-xay để can thiệp vào Việt Nam không. Tiểu ban này, tuy xác nhận rằng Hiệp ước Véc-xay chưa bao giờ được thực hiện nên không thể dựa vào nó, nhưng lại cho rằng những vụ xúc phạm ngày càng nhiều đối với các giáo sĩ cũng đã biện hộ cho sự cần thiết phải hành động. Vào lúc đó, giám mục Pen-lơ-ranh (Pellerin), Khâm mạng Toà thánh ở miền Bắc Nam Kỳ (tức từ Huế vào) cũng đẩy mạnh cuộc vận động Pháp can thiệp vào Việt Nam. Và cuối cùng Na-pô-lê-ông III đã quyết định hành động.

Chuẩn đô đốc, Tư lệnh trưởng hạm đội Pháp ở Trung Quốc là Giơ-nui-y (Genouilly) nhận được chỉ thị từ Pháp sang là "nên ưu tiên sử dụng những biện pháp có hiệu quả nhanh chóng và đảm bảo hơn", ý muốn nói bằng biện pháp quân sự, để khuất phục Việt Nam. Chỉ thị nói rõ: "Một khi đã đến sát bờ biển vương quốc An Nam thì phải đánh chiếm vịnh biển và lãnh thổ Đà Nẵng". Và sau khi đã chiếm được Đà Nẵng rồi thì "dù có áp đặt được sự thừa nhận nền bảo hộ của Pháp trên xứ sở Nam Kỳ, hay chỉ đơn giản ký kết được một hiệp ước bình thường thì Giơ-nui-y cũng phải giữ được chủ quyền Đà Nẵng làm vật bảo đảm, buộc phía chính phủ Nam Kỳ phải thi hành hoàn toàn hiệp ước đã ký kết"[5].

Cuối tháng 5-1857, lại thêm một sự kiện mới như lửa đổ thêm dầu, làm cho mối quan hệ giữa Việt Nam với Pháp đã xấu lại càng xấu thêm. Đó là việc giáo sĩ Tây Ban Nha Đi-a-dơ (Diez) bị bắt giam tại tỉnh lỵ Nam Định và sau đó bị chém đầu vào ngày 20-7 năm đó, bất chấp sự can thiệp của Pháp. Lập tức Giơ-nui-y, tổng chỉ huy hạm đội Pháp đang hành quân ven bờ biển Trung Hoa, nhận được lệnh điều chiến hạm xuống vùng biển phía Nam. Mầm mống của một cuộc chiến tranh đã xuất hiện. Trong hành động gây chiến này, Pháp đã lôi kéo được cả Tây Ban Nha vào. Nhưng cũng phải đợi đến sau khi Hoà ước Thiên Tân được ký kết (28-6-1858), chấm dứt các hoạt động quân sự của Pháp tại Trung Quốc thì các lực lượng quân sự Pháp mới có thể lên đường đi sâu xuống vùng biển phía Nam. Ngày 31-8-1858, liên quân viễn chinh Pháp - Tây Ban Nha kéo đến dàn trận trước cảng Đà Nẵng. Mờ sáng hôm sau, khi vịnh Đà Nẵng còn đang chìm trong sương mù, những loạt đại bác đầu tiên của hạm đội liên quân đã vang lên báo hiệu cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp đối với Việt Nam. Thay mặt nhân dân cả nước, quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng đã hiên ngang chiến đấu đối mặt với quân thù, trong sự quan tâm theo dõi của đồng bào cả nước. Một thời kỳ đấu tranh mới của nhân dân ta bắt đầu.



(*) Tạp chí Lịch sử quân sự, số 2-1999, tr.10-13.

[1] Nguyễn Xuân Thọ, Lịch sử thâm nhập của Pháp vào Việt Nam (1858-1897), Giáo hội Phật giáo Linh Sơn thế giới xuất bản, Mỹ, 1997.

[2] Hiệp ước Pa-ri (1763) đánh dấu sự thất bại của nước Pháp về phương diện thuộc địa trước sự bành trướng mạnh mẽ của tư bản Anh.

[3] Bản gốc của tư liệu này hiện nằm tại Cơ quan Lưu trữ - Bộ Ngoại giao Pháp; đề ngày mồng 10 tháng 7 âm lịch, đời thứ 13 triều Cảnh Hưng (đối chiếu dương lịch là ngày 18-8-1782).

[4] Hồi ký và tư liệu châu Á, Quyển 27, tr. 288-289.

[5] Hồi ký và tư liệu châu Á, Quyển 27, tr. 339-341.

Khoa Khoa học xã hội & Nhân văn

(0208).3848.976
Loading the player ...

Liên kết website

Thống kê website

Lượt truy câp: 1837307
Trong ngày:
Đang online: 5