XỨ ĐÀNG TRONG TRONG CÁC MỐI QUAN HỆ VÀ TƯƠNG TÁC QUYỀN LỰC KHU VỰC
[ 23/02/2013 17:49 PM | Lượt xem: 1770 ]

XỨ ĐÀNG TRONG TRONG CÁC MỐI QUAN HỆ VÀ TƯƠNG TÁC QUYỀN LỰC KHU VỰC

 

 PGS.TS. Nguyễn Văn Kim

1. NGUYỄN HOÀNG VÀ SỰ NGHIỆP KHAI MỞ ĐẤT ĐÀNG TRONG

Mặc dù còn có những ý kiến khác biệt nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng sau khi cuộc giao tranh Trịnh - Nguyễn kết thúc vào năm 1572 một thế cuộc phân cát Đàng Ngoài - Đàng Trong đã xác lập.  Từ mốc thời gian đó đến tháng 6-1786, khi quân Tây Sơn, dưới sự chỉ huy của thiên tài quân sự Nguyễn Huệ, tiến đánh Phú Xuân rồi thừa thắng vượt sông Gianh, đánh tan quân Trịnh, làm chủ Thăng Long tháng Tám năm đó... lịch sử Việt Nam đã trải qua hơn hai thế kỷ (214 năm) với nhiều thách thức và biến chuyển lớn.

Trở lại với lịch sử Việt Nam hơn 400 năm trước ta thấy, sau khi Nguyễn Hoàng (1524-1613) được Trịnh Kiểm (? -1570) chấp thuận cử vào làm Trấn thủ vùng Thuận Hoá, bằng những biện pháp thận trọng, ông đã tích cực chuẩn bị những bước đi lâu dài cho việc xây dựng, tồn tại và phát triển của một chính thể cát cứ[1]Nhưng, việc ra đi của Nguyễn Hoàng, như lịch sử đã cho thấy, cũng gắn liền với quá trình khai mở đất Đàng Trong[2]. Mới ngoài tuổi 30 nhưng đã sớm thể hiện là một người có tầm nhìn chiến lược, hiển nhiên Đoan quận công hiểu những thách thức đang và sẽ đặt ra đối với một chính thể được kiến lập trên vùng đất mới. ở đó, vốn có một truyền thống lịch sử và văn hoá khác biệt[3]. Đất Thuận Hoá, nơi ông được giao trị nhậm, từ lâu đã là nơi hợp tụ của rất nhiều lớp người, với nhiều thành phần xã hội hết sức phức tạp[4]. Và chính ông, cũng như các chúa kế nghiệp, cũng rất hiểu “đất Đàng Trong vẫn là của những trung tâm văn hoá có quá khứ huy hoàng”[5]. Hơn thế nữa, là con trai thứ của Thái sư Nguyễn Kim (1467-1545), có anh là Tả tướng Nguyễn Uông từng bị thế lực nhà Trịnh lập mưu sát hại, có chị là Ngọc Bảo đang làm dâu họ Trịnh..., lại đã từng chứng kiến và tham gia những cuộc xung đột quân sự, chính trị quyết liệt nhằm giành lại quốc thống cho nhà Lê, Nguyễn Hoàng hiểu rõ truyền thống văn hoá - chính trị xứ Bắc, sức mạnh cùng những nhược điểm căn bản của thể chế quan liêu Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài.

Để yên lòng dân, thu phục nhân tâm, đồng thời để thu hút cư dân các địa phương vùng Bắc Trung Bộ tiếp tục di cư vào Thuận Hoá sinh sống, Nguyễn Hoàng đã ra sức “vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được dân mến phục, bấy giờ thường xưng là chúa Tiên. Nghiệp đế dựng nên thực là xây nền từ đấy”[6]. Lượng thấy sức lực chưa đủ khả năng để có thể đoạn tuyệt và đương đầu với chính quyền Lê - Trịnh, Nguyễn Hoàng đã thực thi một chính sách khôn khéo, đúng với chức phận của một kẻ bề tôi. Ông hiểu rằng với danh nghĩa làAn Nam đô thống sứ ty đô thống sứ (1598), rồi An Nam quốc vương (1647) thời Minh (1368-1644) và vua Lê vẫn được tái phong An Nam quốc vương năm 1667 dưới triều Thanh (1644-1911), về danh nghĩa vua Lê vẫn là người đại diện duy nhất cho chính thể[7]. Sau chuyến đi Thanh Hoa yết kiến Lê Anh Tông (1557-1573) ở hành cung An Trường và gặp Thái sư Trịnh Kiểm năm 1569, năm sau, nhân việc Trấn Quốc công Bùi Tá Hán, Tổng trấn Quảng Nam qua đời, Nguyễn Bá Quýnh tạm thay, Nguyễn Hoàng đã được chúa Trịnh giao cho kiêm lãnh Trấn thủ xứ Quảng Nam thay cho Tổng binh Bá Quýnh đổi ra Nghệ An làm Trấn thủ. Có thể coi đây là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược bởi chính quyền Đàng Trong không chỉ có danh nghĩa chính thức để mở rộng hơn nữa ảnh hưởng về phía nam, mà còn tạo thêm được thế phòng thủ có chiều sâu cho một chủ trương chiến lược. Trên thực tế, với sự kiện đó thế lực họ Nguyễn đã làm chủ được một trung tâm kinh tế quan trọng nhất miền Trung với một không gian đồng bằng tương đối rộng lớn, một vùng đất có tài nguyên phong phú và một cảng biển giàu tiềm năng vốn từng nổi tiếng quốc tế thời kỳ Champa ở vùng cửa sông Thu Bồn.

Mặc dù đã phần nào khẳng định được thế đứng chân trên vùng đất mới nhưng Nguyễn Hoàng vẫn tiếp tục chủ trương thực hiện đường lối hoà hiếu với chính quyền Lê - Trịnh, nộp phú thuế đầy đủ “để giúp việc quân, việc nước triều đình cũng được nhờ”[8]. Hàng năm, ngoài thóc gạo, Đàng Trong thường giao nộp 400 cân bạc và 500 cây lụa. Năm 1593, Nguyễn Hoàng còn đem một đội binh lực mạnh ra Thăng Long để cùng các con trai giúp Trịnh Tùng trấn áp tàn quân của nhà Mạc, giúp vua Lê bang giao với nhà Minh, đồng thời dâng nạp sổ sách về binh lương, của cải, vàng bạc, châu ngọc, kho tàng của hai trấn Thuận - Quảng để tỏ lòng thành. Đến năm Canh Tý (1600), nhận thấy lòng nghi kỵ ngày càng rõ của Trịnh Tùng (1570-1623), Nguyễn Hoàng đã tìm cách thoát khỏi sự kiềm chế của chúa Trịnh trở về đất bản bộ Thuận Hoá, đẩy nhanh sự nghiệp kiến dựng vùng đất mới. Sau khi Nguyễn Hoàng qua đời năm 1613, Nguyễn Phúc Nguyên (cq: 1613-1635) lên nối nghiệp cha. Theo tư tưởng và cách thức của cha, Phúc Nguyên tìm mọi cách từng bước ly khai với thế lực của chúa Trịnh, thoái thác việc cống nạp, không “đóng góp tài phú để cung quốc dụng” khiến chúa Trịnh ngày càng thấy rõ mối nguy của sự phân lập. Do vậy, năm 1620, Trịnh Tùng đã phái 5.000 quân đến cửa biển Nhật Lệ để uy hiếp và bảy năm sau cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn đã nổ ra, kéo dài suốt 45 năm, gây nên những tổn thất nghiêm trọng đối với cả hai bên[9] tham chiến.

Về phần mình, sau sáu lần huy động một lực lượng binh lực lớn tấn công vào Nam bất thành, chúa Trịnh đã phải từ bỏ ý định “diệt Nguyễn”. Đối với Đàng Trong, tiềm lực quân sự của Đàng Ngoài cùng uy danh truyền thống của vua Lê cũng khiến Phú Xuân phải tự kiềm chế, không thể một lần nữa cử binh vượt sông Gianh tấn công ra Bắc. Không bị kiềm toả bởi thiết chế chính trị quan liêu và những định chế dường như đã trở thành nguyên tắc bất biến của tư tưởng Nho giáo, Đàng Trong vừa tìm cách đối phó với Đàng Ngoài vừa xây dựng những nguyên tắc cho sự vận hành một thể chế chính trị mới. Nguyễn Hoàng đã lựa chọn rồi quyết định dựa vào Phật giáo, dựa vào tư tưởng quảng đại, khoan dung của Phật đạo và lấy đó làm nền tảng căn bản cho việc hoạch định các chính sách[10]. Mặc dù, trong khi ban hành và thực thi nhiều chính sách cụ thể, ông vẫn tiếp tục tuân thủ các định chế Nho giáo mà Lê Thánh Tông đã đề ra[11].

Và, cũng chính trong khoảng thời gian, không gian văn hoá đó biết bao huyền thoại đã lan truyền trong dân gian về sự hiện diện của một đấng minh vương sáng thế. Điều hiển nhiên,các huyền thoại, huyền tích đó cũng đã tạo nên những sắc màu linh nhiệm tôn vinh vị thế của Nguyễn Hoàng. Dẫu vậy, những công tích to lớn của ông trên dải đất Đàng Trong là sự thực được lịch sử ghi nhận. Hai trăm năm sau, bằng nhãn quan của một trí thức Nho giáo, ở vào một vị thế chính trị đối lập, Lê Quý Đôn (1726-1784) cho rằng: “Đoan quận công có uy lực, xét kỹ, nghiêm minh, không ai dám lừa dối. Cai trị hơn 10 năm, chính sự khoan hoà, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, dùng phép công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quân dân hai xứ thân yêu tín phục; cảm nhân mến đức, dời đổi phong tục, chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang, ai cũng cố gắng, trong cõi đều an cư lạc nghiệp”[12]. Nhờ có những chính sách hợp thời và hợp lòng người đó đến “Cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, nền kinh tế Thuận Quảng có những bước phát triển mạnh mẽ. Chính sự phát triển kinh tế đó, trực tiếp là sự phát triển kinh tế hàng hoá cùng với chính sách khai mở của chính quyền chúa Nguyễn là cơ sở và tác nhân bên trong rất quan trọng, dẫn đến sự xuất hiện của một loạt đô thị và thương cảng, trong đó có Hội An, với vị trí và điều kiện thuận lợi của nó, sớm trở thành trung tâm kinh tế mậu dịch đối ngoại thịnh đạt nhất”[13].

Ở vùng Thuận - Quảng, Nguyễn Hoàng đã cho lập 12 dinh, đứng đầu là các võ quan gọi là Trưởng dinh hay Trấn thủ. Nhận thấy những áp lực chính trị mạnh mẽ từ phương Bắc, đồng thời để tạo nên những kháng lực cần thiết trong quan hệ quốc tế, chính quyền Đàng Trong đã khẩn trương xây dựng một lực lượng quân sự tinh nhuệ. Dựa vào cơ chế tuân lệnh của thiết chế quân sự, chúa Nguyễn không chỉ sử dụng quân đội trong các cuộc chiến đấu, bảo vệ an ninh mà còn huy động binh sĩ tham gia vào rất nhiều các hoạt động trọng yếu khác. Để tạo nên ưu thế trội vượt về binh lực, sẵn sàng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, chúa Nguyễn còn rất chú trọng xây dựng lực lượng hải quân và phát triển trọng pháo. Do vậy, vào năm 1642, Đàng Trong mới có khoảng 200 khẩu đại bác thì chỉ tám năm sau, con số đó đã tăng lên 1.200 khẩu. Số trọng pháo này chủ yếu do các thế lực phương Tây như Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha cung cấp. Có thể khẳng định rằng, chính tiềm lực kinh tế thương mại và những chính sách khai mở đã cho phép chúa Nguyễn xây dựng các lực lượng vũ trang mạnh chỉ trong một thời gian tương đối ngắn. Trên một vùng đất mới, dựa vào tư tưởng Phật giáo nhưng không ngừng được gia cố bằng thiết chế quân sự, các chính sách của họ Nguyễn đã đem lại kết quả rõ rệt. Như vậy, cùng với việc thực thi một chính sách khai mở, thu phục nhân tâm, khơi dậy và khuyến khích mọi nhân tố phát triển mới thì việc xây dựng được một lực lượng quân sự mạnh và có tầm nhìn hướng biển mạnh mẽ đã tạo nên nền tảng căn bản giúp chúa Nguyễn có thể giữ vững và củng cố được vị thế vững chắc ở Đàng Trong.

2. ĐA PHƯƠNG HOÁ QUAN HỆ VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ THƯƠNG MẠI

Mặc dù đã làm chủ được vùng Thuận - Quảng sau năm 1570, Nguyễn Hoàng và những người thân tín của ông vẫn tìm mọi cách để chiêu dụ người hiền tài, khuyến khích dân di cư, tích cực khai phá những vùng đất mới... Trong một thế cuộc chính trị hết sức phức tạp, Nguyễn Hoàng đã đi đến một sự lựa chọn táo bạo mà chính ông cũng chưa có nhiều kinh nghiệm làđặt cược thể chế của mình vào sự hưng vong của kinh tế ngoại thương. Nhận thấy những hạn chế của môi trường tự nhiên đối với cư dân nông nghiệp vùng khô, Đàng Trong đã xác lập một chiến lược phát triển mới với những bước đi và nhận thức khác biệt nhằm hoà nhập mạnh mẽ hơn với những biến chuyển chung của khu vực. Cách thức lựa chọn con đường phát triển đó đã đưa Đàng Trong tái hợp với mô hình phát triển chung của hầu hết các quốc gia Đông Nam á và ngả mạnh về hướng biển. Trong diễn tiến lịch sử đó, vai trò của những vị chúa thời khai sáng như Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên... có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Với chủ trương trọng thương, vào cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, dường như Đàng Trong đã trở thành một Thể chế biển, triệt để phát huy truyền thống khai thác biển, phát triển giao thương và giao lưu văn hoá trên biển[14]. Nhận thấy kinh tế ngoại thương chỉ có thể tồn tại, phát triển trong hệ thống và chịu sự tác động của các mối quan hệ tương hỗ bởi sự tích hợp của nhiều thành tố, các chúa Nguyễn đã thiết lập quan hệ với đồng thời nhiều quốc gia. Qua đó, Đàng Trong không chỉ bảo vệ, nâng cao được vị thế chính trị của mình như một đối tác trọng yếu trong các mối quan hệ, tương tác quyền lực khu vực, mà thông qua các mối quan hệ đó, chủ yếu là các hoạt động của kinh tế hải thương, đã tạo nên thế đứng vững chắc cho kinh thành Phú Xuân. Do vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, Đàng Trong không chỉ đã duy trì được nền độc lập của mình, đủ sức đương đầu với các cuộc tấn công quyết liệt của quân Trịnh mà còn phát triển được thể chế chính trị ngày càng hoàn chỉnh với Tầm nhìn hướng biển song song với xu thế hướng Nam ngày càng mạnh mẽ.  

Từ nhiều nguồn sử liệu chúng ta có thể khẳng định rằng việc chúa Nguyễn chủ trương tiến mạnh về phương Nam, đặc biệt là sau năm 1672 khi cuộc xung đột Trịnh - Nguyễn chấm dứt, là muốn mở rộng hơn nữa phạm vi quản chế, tìm kiếm không gian để tạo thêm một thế đứng chân nữa từ nền tảng kinh tế nông nghiệp. Điều chắc chắn là, thông qua việc xác lập phạm vi ảnh hưởng đó, chúa Nguyễn cũng muốn thiết lập thêm những thương cảng mới, tạo nên một mạng lưới thương cảng, thúc đẩy mối quan hệ tương hỗ và triệt để khai thác năng lực của Hội An với vị trí là cảng thị trung tâm. Sự khai mở, trong đó có cả phần phục hưng của hệ thống cảng Nam Trung Bộ thế kỷ XVI - XVII như Thanh Hà, Hội An, Nước Mặn[15] và sau đó là các cảng vùng sông Đồng Nai, Sài Gòn, Hà Tiên... cho thấy Đàng Trong luôn cố gắng duy trì vị thế và phát huy những tiềm năng vốn có của một Vương quốc biển.

Chủ trương mở rộng và đẩy mạnh quan hệ hải thương đó cũng cho thấy tầm nhìn chiến lược của các chúa Nguyễn trong việc nắm bắt xu thế phát triển của thời đại. Trong khi đi đến quyết định trụ lại lâu dài ở Đàng Trong, Nguyễn Hoàng cũng đã nhận thấy sức mạnh tiềm tàng của dải đất miền Trung trong những ngành kinh tế phi nông nghiệp. Người hiểu thế mạnh của một vùng đất và đất cũng lựa chọn, tôn vinh người hiền tài. Điều đáng chú ý là, quá trình xây dựng chính thể của các chúa Nguyễn cũng tương hợp với Thời kỳ hoàng kim trong quan hệ hải thương châu á mà Anthony Reid, chuyên gia nổi tiếng về lịch sử thương mại Đông Nam á, cho rằng kéo dài từ năm 1450 đến 1680[16]. Cho đến lúc qua đời, để lại lời trăng trối mà Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) đã truyền dạy cho về một dải “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, Nguyễn Hoàng đã thành công trong việc xây dựng những nguyên tắc căn bản của một chính thể.

Vào thời cầm quyền của ông, Đàng Trong đã có quan hệ với đồng thời nhiều quốc gia, trong đó có những cường quốc lớn nhất về thương mại biển. Trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ nền kinh tế hải thương lại có quan hệ rộng mở, đa dạng và phát triển hưng thịnh như giai đoạn thế kỷ XVI-XVII. Hầu hết các cường quốc kinh tế lúc bấy giờ, cả ở châu á và châu Âu, đều đến và thiết lập quan hệ trao đổi, buôn bán với Đàng Trong[17]. Do có lợi thế về vị trí địa lý và thực sự theo đuổi một chủ trương kinh tế khai mở, lại phát triển trong bối cảnh nền chính trị khu vực có những thuận lợi nhất định, từ cảng Chiêm đã bị suy tàn Hội An đã mau chóng phục hưng và trở thành một trung tâm thương mại lớn ở khu vực Đông Nam Á.Cảng thị này đã đóng vai trò của một Trung tâm liên vùng[18] để cùng với Goa (Ấn Độ), Ayutthaya (Xiêm), Malacca (Malaixia), Batavia (Inđônêxia), Luzon, Manila (Philippin)... nối kết với Formosa (Đài Loan), Macao (Trung Quốc), Deshima (Nhật Bản) để tạo nên một hệ thống thương mại có độ liên kết chặt và tương đối hoàn chỉnh của châu Á.

 Cũng cần phải nói thêm là từ khoảng thế kỷ XV, không chỉ ở châu Âu mà cả ở châu Á điều kiện đi biển của nhiều quốc gia cũng được cải thiện đáng kể. Việc chế ra được những con thuyền đi biển lớn, có thể điều chỉnh hướng gió bằng hệ thống nhiều cột buồm như tàuCaraven cũng như tri thức về thiên văn học, khả năng nắm bắt sự biến đổi của các luồng hải lưu và việc sử dụng la bàn cải tiến... đã cho phép nhiều quốc gia hàng hải thực hiện những hải trình dài và vượt xa ra đại dương. Lịch sử cho thấy, trong vòng 28 năm (1405-1433), theo lệnh của Minh Thành Tổ, Trịnh Hoà (1371-1433) đã chỉ huy đoàn thuyền viễn dương Trung Hoa đến nhiều vùng biển trên thế giới. Trong bảy chuyến đi thì cả bảy chuyến, Trịnh Hoà đều cho hạm đội từ Nam Kinh đến Phúc Kiến rồi từ đó đến thẳng Chiêm Thành (Chan-ch’êng), có thể đoán định đó là cảng Nước Mặn, rồi từ đó ông tiếp tục điều phối các đoàn thuyền thực hiện các hải trình đến nhiều quốc gia khác ở Đông Nam và Tây Nam á[19]. Như vậy, đến đầu thế kỷ XV, nhiều đoàn thuyền lớn của các quốc gia Đông Bắc á không còn phải tuân thủ theo các con đường biển truyền thống, tức là đi men theo tuyến biển ven bờ vùng nam Trung Hoa và vịnh Bắc Bộ nữa. Do vậy, trong hệ thống thương mại Đông Nam á, các cảng Đàng Trong càng trở nên có vị trí quan trọng[20].

Theo các nguồn tư liệu phương Tây thì từ năm 1515, thuyền buôn Bồ Đào Nha đã đến Faifo (Hội An) và từ những năm 1540 thì cập bến thường xuyên thương cảng này[21]. Đến những năm đầu thế kỷ XVII hầu hết các cường quốc thương mại phương Tây như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh... đều đến buôn bán với Đàng Trong. Đối với các thương nhân châu á, giới thương nhân Trung Hoa và Nhật Bản luôn gặp được nhiều điều kiện thuận lợi trong các hoạt động thương mại với Đàng Trong và đã góp phần quan trọng vào sự phát triển hưng thịnh của Hội An và hệ thống thương mại khu vực. Nhưng đến những năm 1635-1639, sau một thời kỳ hoạt động nhộn nhịp, do tác động của chính sách toả quốc (sakoku, 1639-1853) thuyền buôn Châu ấn (Shuin sen) Nhật Bản, đối thủ cạnh trạnh lớn của Trung Hoa, đã từng bước rút về nước. Lập tức, các thương nhân Hoa kiều đã chiếm lĩnh thị trường khu vực. Từ sau năm 1672, do không còn chịu sức ép mạnh mẽ từ phía Bắc, chúa Nguyễn đã ngày càng kiểm soát chặt chẽ hơn các hoạt động của thương nhân phương Tây. Do có những hiểu biết sâu sắc về tình hình chính trị cũng như môi trường kinh tế Đàng Trong và từ lâu đã có quan hệ mật thiết với nhiều lớp người, thiết lập được mạng lưới kinh tế đa chiều nên thương nhân Hoa kiều đã trở thành những mãi biện lớn. Nhận thấy cơ hội thuận lợi đó, giới doanh thương vùng Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam... đã thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ kinh tế với khu vực. ở Quảng Đông, một tổ chức thương mại lớn là “Thập tam hãng” đã được thành lập với mục tiêu “cung cấp cho tàu châu Âu các sản phẩm của Việt Nam và đồng thời cung cấp cho Việt Nam hàng Trung Hoa và sản phẩm của châu Âu mà Việt Nam cần”[22].

Mặt khác, từ năm 1715, để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế ngoại thương, khuyến khích sản xuất trong nước, chính quyền Edo đã đặt ra quy định số thuyền Trung Hoa hằng năm đến Nhật là 30 chiếc với tổng giá trị hàng hoá là 6.000 kan (600.000 lạng bạc). Chính sách đó đã khiến cho một số tập đoàn Hoa thương phải chuyển hướng hoạt động xuống Đông Nam á. Nhưng, thuyền của Hoa kiều đến Đàng Trong không chỉ từ Trung Quốc mà còn từ nhiều thương cảng khu vực Đông Nam á như Xiêm La, Cao Miên, Manila, Patani, v.v.. Theo quan sát của Thomas Bowyear vào năm 1695 thì trong khoảng thời gian đó, hằng năm có từ 10 đến 12 thuyền buôn của Hoa kiều đến Hội An buôn bán[23]. Nhưng kể từ khi chính quyền Edo chủ trương hạn chế thuyền Trung Hoa đến Nhật, trong khoảng 10 năm (1740-1750), số thuyền của Hoa thương đến Đàng Trong đã tăng lên mỗi năm chừng 80 chiếc. Trong tác phẩm Công ty Đông ấn ở Quảng Nam, thương nhân người Hà Lan W.J.M.Buch cũng cho rằng: “Lý do khiến có nhiều thương gia như vậy hàng năm từ Trung Hoa đến Quảng Nam là vì có thể tìm thấy ở đây một trung tâm buôn bán với các nước và vùng lân cận. Hồ tiêu được chở tới đây từ Palembang, Pahang và các vùng khác; long não từ Borneo, gỗ vang, ngà voi, ... đồ sứ thô và các hàng hoá khác. Với những gì còn lại, họ có thể mua thêm hồ tiêu, ngà voi, bột gia vị bạch đậu khấu của Quảng Nam, v.v.. Do đó, thuyền của họ trở về Trung Hoa thường là đầy hàng”[24]. Trong quan hệ buôn bán, giới Hoa thương còn giành được ưu thế do việc những chủng loại hàng hoá mà họ đem đến Đàng Trong và thị trường khu vực đều luôn phù hợp với nhu cầu tiêu dùng và mức sống của cư dân bản địa, trong khi đó các sản phẩm châu Âu mà tàu buôn phương Tây đưa đến rất khó có thể tiêu thụ vì giá cao. Do vậy, nguồn lợi mà các tập đoàn thương mại phương Tây thu được chính là việc nhập và tái xuất một số sản phẩm của thị trường Đông Nam á đến khu vực Đông Bắc á hoặc đem về châu Âu tiêu thụ. Theo Antonio Bocarro, Trưởng đại diện vùng Đông ấn của Bồ Đào Nha, thì ở Hội An “tơ vàng rất tốt và rẻ, một số trầm hương, kỳ nam, mặc dù rất hiếm và một số benzoin... tất cả đều là sản phẩm của địa phương và một lượng lớn đồng người Nhật đem tới đây”[25].

Nhận thấy những lợi thế và vai trò của Hoa thương, khác với chính quyền Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài, luôn có thái độ nghi kỵ đối với thương nhân châu Âu và giới ngoại kiều, chính quyền Đàng Trong nhìn chung đã thực hiện một chính sách cởi mở, trọng thị với các thương nhân ngoại quốc, đặc biệt là Trung Hoa, Nhật Bản trong việc trao đổi hàng hoá và xây dựng tiềm lực kinh tế cho chính thể. Cùng với việc nhập tơ lụa, gốm sứ, tiền đồng từ Trung Quốc, Đàng Trong còn nhập đồng và tiền đồng từ Nhật Bản để đúc súng và tiêu dụng. Trong Hải Ngoại kỷ sự, Thích Đại Sán đã dẫn lời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) khi được chúa cho biết tình hình ngoại thương năm 1695: “Các năm trước thuyền ngoại dương đến buôn bán, mỗi năm chừng sáu, bảy chiếc, năm nay số thuyền lên đến mười sáu, mười bảy chiếc, trong nước nhờ đó mà tiêu dùng được dư dật”[26].

Điều chắc chắn là, vào thế kỷ XVI-XVII, nhờ có những quan hệ hải thương mà “Chúa thu được lợi nhuận lớn trong việc buôn bán này bằng thuế hàng hoá và thuế hải khẩu ngài đặt ra và cả nước đều kiếm được rất nhiều mối lợi không thể tả hết”[27]. Và cũng nhờ những nguồn lợi lớn từ thương mại mà nhiều bộ phận xã hội đã trở nên có cuộc sống sung túc. Họ cũng quen sử dụng những vật phẩm cao cấp, ngoại nhập. Theo Lê Quý Đôn thì: “Quan viên lớn nhỏ không ai là không nhà cửa chạm gọt, tường vách gạch đá, the màn trướng đoạn, đồ đạc đồng thau, bàn ghế gỗ đàn, gỗ trắc, chén mâm đồ sứ, đồ hoa, yên cương vàng bạc, y phục gấm vóc, chiếu đệm mây hoa, phú quý phong lưu, đua nhau khoe đẹp. Những sắc mục ở dân gian cũng mặc áo đoạn hoa bát ty và áo sa, lương, địa làm đồ mặc ra vào thường, lấy áo vải áo mộc làm hổ thẹn. Binh sĩ đều ngồi chiếu mây, dựa quả tựa hoa, ôm lò hương cổ, hãm chè hảo hạng, uống chén sứ bịt bạc và nhổ ống nhổ thau, đĩa bát ăn uống thì không cái gì là không phải hàng Bắc, một bữa cơm ba bát lớn. Đàn bà con gái thì đều mặc áo the và hàng hoa, thêu hoa ở cổ tròn. Coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn, xa xỉ rất mực”[28]. Qua đó chúng ta thấy vai trò của kinh tế thương nghiệp và tiềm lực kinh tế của Đàng Trong, ít nhất đến đầu thế kỷ XVIII, vẫn chủ yếu là dựa vào hải thương.      

3. KHẲNG ĐỊNH CHỦ QUYỀN VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI CÁC QUỐC GIA KHU VỰC

Các nguồn tư liệu cho thấy sau khi vào khai phá đất Đàng Trong, trong văn thư ngoại giao các chúa Nguyễn đều mượn danh nghĩa của vua Lê là “An Nam quốc vương” để tạo thế chính danh trong giao tiếp quốc tế[29]. Tuy nhiên, theo Đại Nam thực lục tiền biên thì năm 1709, Nguyễn Phúc Chu (cq:1691-1725) đã cho đúc một ấn riêng khắc “Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo[30]. Đến năm Vĩnh Thịnh thứ mười (1714), Minh Vương Phúc Chu đã cho sửa sang và mở rộng thêm chùa Thiên Mụ rồi “tự làm bài minh khắc chuông, tự xưng là Đại Việt quốc vương[31]. Không được triều đình phong kiến Trung Hoa công nhận chính thức nhưng cũng không bị phủ nhận trong quan hệ bang giao quốc tế, các chúa Nguyễn đã tự khẳng định quyền lực thực tế của mình ở Đàng Trong như một thực thể kinh tế - xã hội và chính trị độc lập. Điều quan trọng là, quyền lực thực tế đó đã được các quốc gia có quan hệ với Đàng Trong xác nhận và tôn trọng.

Như đã trình bày ở trên, tháng 10-1558, khi Thái sư Trịnh Kiểm dâng biểu lên vua Lê xin cho Nguyễn Hoàng vào làm trấn thủ Thuận Hoá. Một trong những nhiệm vụ trọng yếu của Nguyễn Hoàng là phải “đề phòng giặc phía Đông”. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, “giặc phía Đông” chính là tàn quân nhà Mạc. Nhưng đặt trong bối cảnh chính trị quốc tế lúc bấy giờ thì cũng rất có thể đó chính là “một biểu hiện khu vực của những cuộc tấn công dưới sự chỉ huy của người Nhật vào thời gian đó đã đạt tới đỉnh điểm dọc theo bờ biển Trung Quốc”[32]. Sau khoảng hai thế kỷ chủ yếu tiến hành cướp bóc ở vùng biển Đông Bắc Á, đến cuối thế kỷ XVI, nhiều toán Wako đã mở rộng hoạt động xuống vùng biển Đông Nam Á. Nhà nghiên cứu Nhật Bản Iwao Seiichi cho rằng vào năm 1578, Wako (hải tặc Nhật Bản) đã đến vùng biển thuộc hải phận Đàng Trong và cướp thuyền của một thương nhân Trung Hoa là Trần Bảo Tùng đang vận chuyển đồng, sắt và đồ gốm đến Quảng Nam[33]Đại Nam thực lục tiền biên cũng ghi lại sự kiện năm 1585, Bạch Tần Hiển Quý (Shirahama Kenchi) đã chỉ huy một đoàn thuyền lớn gồm năm chiếc đến cướp ở Cửa Việt bị lực lượng hải quân của chúa Nguyễn gồm 10 chiến thuyền do Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1634) chỉ huy tấn công, đánh tan hai chiếc. Trước sự tấn công quyết liệt của lực lượng hải quân Đàng Trong, “Hiển Quý sợ chạy... Từ đó giặc biển im hơi”[34]. Chiến công đó của Phúc Nguyên đã được chúa khen là “anh kiệt” và ban thưởng rất hậu. Chính nhờ có tài năng vượt trội, giàu chí khí và đức độ mà chúa Nguyễn Hoàng đã chọn ông, hoàng tử thứ sáu, làm người kế nghiệp, đứng đầu thể chế Đàng Trong.

Có thể thấy, thái độ kiên quyết đó của chúa Nguyễn không chỉ đã bảo vệ được toàn vẹn chủ quyền của Đàng Trong, góp phần cùng với các quốc gia trong khu vực giải trừ nạn hải tặc, đem lại môi trường ổn định cho giao thương quốc tế mà còn khiến chính quyền Nhật Bản phải có ý thức đầy đủ hơn trong các mối bang giao khu vực[35]. Sau khi chính quyền Edo được thiết lập năm 1600, tướng quân Nhật Bản Tokugawa Ieyasu (1542-1616) đã thực hiện và kiểm soát chặt chẽ chế độ Châu ấn thuyền. Nhận thấy tầm quan trọng của các cảng Đàng Trong đối với sự phát triển của kinh tế Nhật Bản và cũng để giải quyết những tồn tại trong quan hệ hai nước, năm 1601 trong bức thư gửi cho Nguyễn Hoàng, Tokugawa Ieyasu khẳng định: “Thương gia Nhật Bản khi vượt biển đi buôn bán xa xôi, không được vi phạm chính trị ở những quốc gia đi đến. Vì tôi suy nghĩ như thế nên xin ngài yên tâm...Thương thuyền nào không mang thư Châu ấn thì không cho thông thương”[36]. Trước những thay đổi đó của chính quyền Nhật Bản, trong thư trả lời, Nguyễn Hoàng cũng đã thể hiện thái độ mềm mỏng cần thiết: “do không biết Hiển Quý là thương gia tốt” nên cuộc xung đột đáng tiếc đã xảy ra đồng thời mong phía Nhật Bản bỏ qua sự việc trên để cử thuyền đến Đàng Trong buôn bán[37]. Từ đó, đến khi chính quyền Edo thực thi chính sách toả quốc (sakoku, 1639-1853), chúa Nguyễn đã thiết lập được mối quan hệ chính thức với Nhật Bản. Các thuyền Châu ấn là những bạn hàng trọng yếu của Đàng Trong.

Trong quan hệ buôn bán, các chúa Nguyễn đã có nhiều ưu ái và trọng dụng tài năng của giới doanh nhân Nhật Bản. Nhằm thắt chặt mối quan hệ với Nhật Bản, năm 1619 Nguyễn Phúc Nguyên còn gả con gái cho thương nhân Nhật Bản Araki Sotaro, cho phép người Nhật (và cả giới Hoa Thương) lập Hội quán, phố Nhật kiều để sinh sống và buôn bán lâu dài. Thậm chí, chúa Nguyễn còn tin cậy giao cho họ quyền tự quản, tự bầu nên trưởng khu để điều hành một số hoạt động nhất định trong cộng đồng Nhật kiều theo nguyên tắc “ngoại trị pháp quyền” trên cơ sở tôn trọng truyền thống văn hoá, phong tục và luật pháp của Nhật Bản. Theo đó, từ năm 1633 đến 1672 đã có sáu người Nhật thay nhau giữ trọng trách đó[38]. Những người này có thế lực tương đối lớn trong đời sống kinh tế - xã hội ở Hội An. Như vậy, việc xử lý thoả đáng mối quan hệ với Nhật Bản của Nguyễn Hoàng đã để lại cho Đàng Trong những kinh nghiệm quý trong quan hệ quốc tế. Điều đó cũng đã tạo nên một tiền lệ và cách thức ứng xử phù hợp với các thương nhân và thế lực quốc tế khác khi đến buôn bán, đỗ thuyền và truyền bá tôn giáo ở Đàng Trong.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng, việc các chúa Nguyễn chú trọng xây dựng lực lượng binh lực mạnh là do sức ép chính trị của Đàng Ngoài. Nhưng, mối quan tâm đó của Đàng Trong còn là nhằm để tạo nên sức mạnh thực tế trong các mối bang giao quốc tế. Cùng với việc tập trung phát triển hải quân, chính quyền Đàng Trong rất muốn có được nhiều đại bác phương Tây để trang bị cho các thuyền chiến và canh giữ cửa biển. Theo C.R.Boxer thì các nhà cầm quyền họ Nguyễn “rất lo lắng làm sao để có được súng từ xưởng đúc súng nổi tiếng của Bocarro ở Maccao. Xưởng này hoạt động vào các năm từ 1627 đến 1680 và sản xuất ra các sản phẩm được đánh giá là loại súng đồng tốt nhất ở phương Đông”

Khoa Khoa học xã hội & Nhân văn

(0208).3848.976
Loading the player ...

Liên kết website

Thống kê website

Lượt truy câp: 1837307
Trong ngày:
Đang online: 10