ĐỒNG CHÍ NGUYỄN VĂN CỪ VỚI TINH THẦN “TỰ CHỈ TRÍCH”-
GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
PGS, TS TRƯƠNG THỊ THÔNG
Phó Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân ta từng nói: Lịch sử Đảng ta là “cả một pho lịch sử bằng vàng”. Để có pho lịch sử vàng ấy, biết bao cán bộ, đảng viên ưu tú đã hy sinh, phấn đấu cả cuộc đời vì Đảng, vì dân, vì nước, tên tuổi mãi mãi được lưu danh trên bảng vàng dân tộc, như Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Thụ, v.v.. Một trong những tên tuổi bất diệt đó là đồng chí Nguyễn Văn Cừ - một người cộng sản trẻ tuổi, một nhà lý luận lỗi lạc, một Tổng Bí thư xuất sắc của Đảng ta.
Với 29 tuổi đời, 13 năm hoạt động cách mạng, trong đó 7 năm bị giam cầm trong nhà tù đế quốc, 2 năm làm Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã có nhiều cống hiến xuất sắc cho Đảng và cách mạng Việt Nam.
Trên cương vị là người lãnh đạo cao nhất của Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã thể hiện tư chất của một lãnh tụ tài năng và sáng tạo. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, Đảng ta đã kịp thời đề ra những chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp với thực tiễn, phát động cao trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ sôi nổi trong cả nước, tạo ra cục diện mới của cách mạng Việt Nam, là tiền đề dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Trong quá trình hoạt động và lãnh đạo cách mạng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã có nhiều tác phẩm, bài viết mang tính sáng tạo về mặt lý luận và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Trong công tác xây dựng Đảng, với tác phẩm Tự chỉ trích, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã có những đóng góp quan trọng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tác phẩm Tự chỉ trích ra đời là sự đáp ứng kịp thời yêu cầu của tình hình phức tạp, khi Đảng vừa hoạt động bí mật, vừa hoạt động công khai; vừa thi hành một sách lược mềm dẻo nhằm lôi kéo các tầng lớp nhân dân vào Mặt trận dân chủ thống nhất rộng rãi; vừa phải giữ vững những nguyên tắc cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin; vừa chống tả khuynh, vừa chống hữu khuynh, nhằm đi tới sự đoàn kết nhất trí trong Đảng.
Tự phê bình và phê bình trong Đảng được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ thể hiện bằng khái niệm “tự chỉ trích”, đó là Đảng cần nhìn thẳng vào khuyết điểm, dám nhận những sai lầm của mình và tìm ra phương châm sửa đổi.
Về sự cần thiết phải tiến hành tự phê bình và phê bình trong Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ nhận định: Đảng ta có đường lối chính trị đúng đắn, đảng viên tận tụy, kiên cường đấu tranh vì quyền lợi của dân tộc và của nhân dân lao động. Tuy nhiên, “Đảng còn trẻ tuổi nên còn phạm nhiều khuyết điểm, nhiều sự sai lầm; điều ấy Đảng luôn luôn “Tự chỉ trích” thành thật và mạnh dạn công nhận để sửa đổi”(1). Đảng hoan nghênh sự phê bình của mỗi đảng viên nhưng sự phê bình đó phải có nguyên tắc và không làm giảm uy tín của Đảng.
Mục đích của tự phê bình và phê bình, theo Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ là “để huấn luyện quần chúng và giúp đảng viên tự huấn luyện, để làm tăng uy tín và ảnh hưởng của Đảng, để cho Đảng càng được thống nhất và củng cố, để đưa phong trào phát triển lên, đưa cách mạng tới thắng lợi”(2). Tự phê bình và phê bình là để Đảng thống nhất tư tưởng “để chỉ có một ý chí duy nhất là ý chí của Đảng, ngàn người sẽ như một để thực hành ý chí ấy”(3).
Về thái độ của tự phê bình và phê bình, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ nhấn mạnh: Bao giờ sự chỉ trích cũng là tự chỉ trích Bônsêvích. “Tự chỉ trích Bônsêvích không phải là công kích Đảng, mạt sát Đảng, đặt danh dự cá nhân lên trên tất cả quyền lợi của Đảng, của cách mệnh”(4); “đem ý kiến riêng dù cho đúng - đối chọi với Đảng, vin vào một vài khuyết điểm mà mạt sát Đảng, phá hoại ảnh hưởng của Đảng, gieo mối hoài nghi, lộn xộn trong quần chúng, gây mầm bè phái chia rẽ trong hàng ngũ Đảng”(5). Việc nêu khuyết điểm của Đảng, theo Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, nhất thiết phải xuất phát từ động cơ xây dựng Đảng. Đấu tranh phê và tự phê bình trong Đảng phải trên những nguyên tắc của Đảng, phải đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng lên trên hết. Đồng chí nêu rõ: “Đối với uy tín của Đảng thì danh dự cá nhân mình không có nghĩa lý gì, hay nói đúng ra không còn nữa, vì một người đảng viên cộng sản chỉ biết lấy uy tín, danh dự chung của toàn Đảng làm danh dự của mình thôi”(6). Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ khẳng định quan điểm của Đảng trong vấn đề tự phê bình và phê bình là: “Công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những nhầm lỗi của mình và tìm phương châm để sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu thỏa hiệp, như thế không phải làm yếu Đảng, mà là làm cho Đảng được thống nhất mạnh mẽ”(7). Đồng chí yêu cầu người cộng sản có bổn phận phải nói rõ sự thật với quần chúng, không thể đổ hết nguyên nhân thất bại là do quân thù đàn áp, do quần chúng chưa giác ngộ, Đảng phải biết nhìn ra khuyết điểm và phải chịu trách nhiệm trước quần chúng. Làm như thế không sợ địch nhân lợi dụng, chửi rủa, vu cáo cho Đảng, không sợ “nối giáo cho giặc”. Trái lại, nếu “đóng kín cửa bảo nhau”, giữ cái vỏ thống nhất mà bề trong thì hổ lốn một cục, đầy rẫy bọn hoạt đầu, đó mới chính là để cho quân thù chửi rủa; hơn nữa đó tỏ ra không phải là một Đảng tiền phong cách mạng, mà là một Đảng hoạt đầu cải lương”(8).
Muốn vậy, phải nêu cao tinh thần tự chỉ trích Bônsơvích, coi tự phê bình và phê bình là nguyên tắc tối cao, là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng; tự phê bình và phê bình phải đảm bảo dân chủ, đảng viên có quyền tự do phát biểu ý kiến, tự do phê bình, nhưng khi vấn đề thảo luận đã thành nghị quyết của Đảng thì mọi đảng viên dù ở cương vị nào cũng phải tuân theo nghị quyết của Đảng, không được quyền nói và làm trái với nghị quyết của Đảng.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã vận dụng nhuần nhuyễn quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về quy luật phát triển của Đảng: thái độ của một chính đảng trước những sai lầm của mình là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn nhất để xem xét đảng ấy có nghiêm túc không và có thực sự làm tròn nghĩa vụ của mình đối với giai cấp mình và đối với quần chúng lao động không. Công khai thừa nhận sai lầm, tìm ra nguyên nhân sai lầm ấy, đó là dấu hiệu chứng tỏ một đảng nghiêm túc - đó là đảng làm tròn nghĩa vụ của mình, đó là giáo dục và huấn luyện giai cấp rồi đến quần chúng.
Với tinh thần của người cộng sản, trước những thành bại của cách mạng, phải tìm ra những nguyên nhân để rút kinh nghiệm. Khi đã tìm ra được nguyên nhân thành bại, người cộng sản phải có cái nhìn đúng đắn, toàn diện, cả điều kiện chủ quan và khách quan, nhất là những thất bại và dám chịu trách nhiệm trước những tổn thất, sai lầm.
Trong tác phẩm Tự chỉ trích, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã phân tích sâu sắc nguyên nhân dẫn đến những thất bại của Đảng trong cuộc tuyển cử Hội đồng quản hạt Nam Kỳ (4-1939) là do Đảng chưa đủ sức lãnh đạo quảng đại quần chúng; ảnh hưởng của Đảng chưa lan rộng tới tất cả các tầng lớp nhân dân; cách tuyên truyền chính sách của Đảng trong quần chúng còn sai lầm; chưa nhận rõ tác hại của những phần tử cơ hội tả huynh v.v..
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã chỉ ra nhiều cách thức và mức độ tự phê bình và phê bình, đối với những đối tượng khác nhau, như: có thứ chỉ trích của người cách mạng tìm tòi những lầm lỗi của mình, nghiên cứu phương pháp để sửa đổi, để tiến lên; có thứ chỉ trích của người cách mạng vạch mặt nạ bọn phản động; có thứ chỉ trích thân mật những chỗ nhu nhược của bạn đồng minh; có thứ chỉ trích nghiêm khắc kẻ lung lay, do dự để mong kéo họ về mình...
Những quan điểm về tự phê bình và phê bình trong Đảng mà Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ nêu ra trong tác phẩm Tự chỉ trích cách đây hơn 70 năm đã giúp Đảng ta đề phòng cả hai khuynh hướng sai lầm tả khuynh - đấu tranh phê bình vô nguyên tắc và hữu khuynh - thủ tiêu đấu tranh. Hai khuynh hướng ấy không chỉ xuất hiện trong thời kỳ đó, mà có thể xuất hiện ở bất kỳ thời kỳ nào trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nếu như có điều kiện cho nó phát triển.
Đọc Tự chỉ trích, chúng ta khâm phục trước sự nhìn nhận sâu sắc về chính trị, tư tưởng của một cây bút lý luận còn rất trẻ, một người chưa hề qua một trường lớp huấn luyện chính trị nào, chỉ trưởng thành từ trường học của nhà tù đế quốc và thực tiễn đấu tranh cách mạng. Tự chỉ trích thể hiện sự minh triết trong tư duy chính trị của một lãnh tụ lỗi lạc; vừa tranh luận, vừa thuyết minh một cách sáng tỏ đường lối, chính sách của Đảng, đánh tan mọi sự mơ hồ, lẫn lộn. Tự chỉ trích là tác phẩm xuất sắc, có vị trí quan trọng trong kho tàng lý luận của Đảng và của cách mạng Việt Nam.
Là một đảng viên tuổi đời, tuổi đảng còn ít hơn một số đồng chí đảng viên khác (29 tuổi đời, 11 tuổi Đảng), Nguyễn Văn Cừ luôn có sự kính trọng lớp đàn anh. Nếu không vì lợi ích của Đảng, không sợ người khác hiểu lầm; nếu không có dũng khí của một người cộng sản chân chính thì không dễ gì viết nổi Tự chỉ trích và khi đã viết rồi thì chưa chắc có đủ dũng khí để tuyên bố công khai ý kiến của mình. Qua tác phẩm Tự chỉ trích chúng ta thấy Nguyễn Văn Cừ là một đồng chí có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, luôn đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng lên trên hết, trước hết; đồng chí là tấm gương sáng về tinh thần phê bình và tự phê bình cho toàn Đảng, toàn dân noi theo.
Chính nhờ thường xuyên phê bình và tự phê bình mà trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã kịp thời phát hiện được những sai lầm, khuyết điểm và kiên quyết sửa chữa sai lầm, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của Đảng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của dân tộc và nhân dân giao phó.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa bảo vệ Tổ quốc, nhằm mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước vừa có thuận lợi, thời cơ, vừa có khó khăn, thách thức, Đảng ta đang đứng trước nhiều vấn đề mới phải xử lý, nhiều việc hết sức phức tạp. Không ít vấn đề lý luận và thực tiễn chưa đủ sáng tỏ. Trong khi đó, trình độ nhận thức, trí tuệ của chúng ta có mặt còn hạn chế. Bên cạnh mặt tích cực, thành tựu, công tác xây dựng Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng còn những tiêu cực, yếu kém đáng lo ngại, nhất là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận đội ngũ cán bộ, đảng viên; tình trạng quan liêu, xa dân, tổ chức không chặt chẽ, nhiều nguyên tắc của Đảng bị vi phạm. Nhiều tổ chức đảng tự phê bình và phê bình không thành nền nếp thường xuyên, mang tính hình thức, kém hiệu quả. “Tình trạng phổ biến là xuê xoa, thỏa hiệp, đặc biệt thường né tránh các vấn đề nhận thức quan điểm, đường lối và thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu. Ngược lại, không ít nơi lại “đấu đá” gây rối nội bộ hoặc trù dập người phê bình thẳng thắn, một số nơi nội bộ không thống nhất, nhưng không nói ra, thủ thế lẫn nhau, đến khi có vấn đề đụng đến cá nhân, khi bầu cử, đề bạt mới bung ra”(9). Đó là chưa kể các thế lực thù địch đang tìm mọi cách tấn công phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Chúng ra sức xuyên tạc, vu cáo Đảng ta, kích động chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng với nhân dân, hòng làm tan rã Đảng ta từ bên trong.
Trong những năm qua, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị nhằm đổi mới, chỉnh đốn, không ngừng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước là minh chứng cho sự trưởng thành và lớn mạnh của Đảng ta. Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ thì năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng và đảng viên chưa cao, chưa đáp ứng được nhiệm vụ. Nếu không xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ thì khó hoàn thành được sứ mệnh lịch sử mà dân tộc giao cho.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và căn cứ vào tình hình thực tế, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết về Một số vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, nhằm tạo ra những kết quả cụ thể, rõ rệt trên lĩnh vực này, làm cho sức mạnh của Đảng ngày càng được tăng cường, năng lực lãnh đạo của Đảng ngày càng cao hơn, sự gắn bó với nhân dân ngày càng chặt chẽ, thúc đẩy thực hiện có hiệu quả mọi nhiệm vụ chính trị.
Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức rằng, đây là công việc không đơn giản, dễ dàng, trái lại, vô cùng khó khăn, phức tạp, thậm chí có thể là một cuộc đấu tranh gay go, gian khổ diễn ra ngay trong mỗi con người, mỗi tổ chức. Nó đòi hỏi toàn Đảng phải có nỗ lực rất cao, mỗi cá nhân và tập thể phải quyết tâm rất lớn, phấn đấu bền bỉ, kiên trì với những biện pháp thật kiên quyết và tích cực.
Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ sức mạnh của mỗi tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên. Để Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, thang thuốc quý mà Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ để lại cho Đảng ta, đó là nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình trong Đảng, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm; để củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng; để Đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Đảng có vững cách mạng mới thành công”. Với truyền thống 82 năm vẻ vang của Đảng, với niềm tin tưởng vào đội ngũ cán bộ, đảng viên được rèn luyện trong thực tiễn cách mạng, được nhân dân tin yêu giúp đỡ, chúng ta tin tưởng rằng, sẽ từng bước ngăn chặn, đẩy lùi được tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và tình trạng tham nhũng tiêu cực, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng lòng mong mỏi, sự tin yêu của nhân dân.q
(1),(2),(3),(4),(5),(6),(7),(8) Nguyễn Văn Cừ: Một số tác phẩm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.218, 219, 216, 217, 219, 217, 219, 219.
(9) Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chống tham nhũng, lãng phí, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.141.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị - số 7
Lượt truy câp: 1837307
Trong ngày:
Đang online: 12