Lịch sử là
quá khứ hướng tới tương lai |
|||
Hiệp định Paris được ký kết
vào ngày 27/1/1973 là kết quả một quá trình vận động lâu dài của cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, cũng là thành quả trực tiếp của Chiến thắng “Điện
Biên Phủ trên không” (12-1972) và trở thành tiền đề cho một bước ngoặc trọng
đại trong quá trình vận động tiếp theo của lịch sử mà kết thúc bằng thắng lợi
hoàn toàn của sự nghiệp thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam (1975-1976). |
|||
|
|||
Nó là gạch nối giữa hai giai đoạn tất yếu
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra như cẩm nang để kết thúc một cuộc chiến
tranh nhằm bảo vệ thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, bảo vệ nền độc
lập và sự thống nhất của một quốc gia, được diễn giải bằng những lời lẽ mộc
mạc nhưng sâu sắc “Đánh cho Mỹ cút - Đánh cho Ngụy nhào" trong bài thơ
chúc Tết cuối cùng của mình. Ngày 13/5/1968, Hội nghị Paris được khởi
động như hệ quả của cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1968 làm lung lay ý chí muốn
đè bẹp đối phương bằng sức mạnh quân sự của Mỹ, đã mở ra một hình thái mới
của chiến tranh nhìn từ cả hai phía: cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của
nhân dân Việt Nam và cuộc chiến tranh can thiệp của đế quốc Mỹ. Đó là hình
thái "vừa đánh vừa đàm".
Tiếp cận từ góc độ sử học, câu chuyện ai là
người chìa bàn tay đàm phán trước để đi đến chấm dứt chiến tranh có thể còn
có những ý kiến khác nhau. Người ta có thể nhắc tới những gợi ý của Tổng
thống Mỹ Lyndon B. Johnson ngay từ bài diễn văn ngày 7/4/1965 đã đưa ra và
kiên trì theo đuổi việc "hai bên cùng rút quân và cùng đi vào đàm phán
không điều kiện" sau khi đã phát động cuộc Chiến tranh phá hoại sử dụng
không quân và hải quân bắn phá miền Bắc (từ 5/8/1964). Người ta cũng có thể
nhắc tới sứ mệnh của hai nhà thương lượng có thiện chí người Pháp là ông
Aubrac (bạn cũ của Chủ tịch Hồ Chí Minh) và nhà toán học Markovic được Tổng
thống Mỹ nhờ chuyển thông điệp tới các nhà lãnh đạo Việt Nam về khả năng đàm
phán. Người ta cũng có thể nhắc đến lời "trách" của cựu Bộ trưởng
Chiến tranh Mỹ McNamara tại cuộc hội thảo ở Florida, năm 1990 nhằm trả lời
câu hỏi "Có cơ hội nào đã từng bị bỏ lỡ không?", rằng phía Việt Nam
đã không đáp ứng những thiện chí của Mỹ muốn sớm chấm dứt chiến tranh ở Việt
Nam nên cơ sự mới phải chờ đến năm 1973 mới ký kết. Nhưng cũng chính thực tiễn lịch sử đã cho
thấy phương thức "vừa đánh vừa đàm" không phải là điều mới mẻ và
dường như đã trở thành một truyền thống của cuộc chiến tranh giữ nước, chống
ngoại xâm của nhân dân Việt Nam trong trường kỳ lịch sử của mình. Từ nửa thiên niên kỷ trước đó, Bình Định
Vương Lê Lợi cùng người mưu sĩ kiệt xuất của mình là Ức Trai Nguyễn Trãi đã
dựng chòi cao bên bến Bồ Đề để hàng ngày ngồi quan sát qua Sông Hồng đạo quân
xâm lược của Nhà Minh đang bị vây hãm đến tuyệt vọng trong thành Đông Quan
(tên đặt thời giặc Minh chiếm đóng kinh đô Đại Việt). Nhưng vào thời điểm ấy,
kế sách của chủ tướng các nghĩa sĩ Lam Sơn không phải chỉ biết dùng sức mạnh
để công phá thành quách đối phương mà muốn dùng "tâm công" đánh vào
lòng người để kết thúc lâu bền một cuộc chiến tranh theo nguyên lý "lấy
nhân nghĩa thắng hung tàn". Những bức thư trao đổi với chủ tướng giặc
Minh sau này được tập hợp lại trong sách "Quân Trung Từ Mệnh Tập"
tạo sức mạnh kết thúc chiến tranh bằng một cuộc đình chiến, rồi một hội thề
cam kết hoà hiếu để không bao giờ lập lại cảnh binh đao giữa hai nước và việc
chủ nhà, người thắng trận "trải thảm" để quân ngoại xâm hồi hương
về cố quốc. Đó là chuyện đã xưa. Chỉ cần ngược thời gian hai thập kỷ trước
sự kiện mà chúng ta đang kỷ niệm 40 năm - Hiệp định Paris 1973 - Mỹ đã từng
tham gia Hội nghị Genève để kết thúc hai cuộc chiến tranh ở Triều Tiên và
Việt Nam (1953-1954). Mỹ đã chứng kiến nhưng không ký vào những văn kiện cuối
cùng về Hiệp định đình chiến ở Việt Nam (20/7/1954) vì ý đồ sẽ tiếp tục can
thiệp sâu hơn vào khu vực Đông Dương để tạo điểm đối đầu Đông-Tây trong cục
diện Chiến tranh lạnh đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Mặc dù, phải chịu nhiều áp lực ngay từ phía
những đồng minh của mình, Chính phủ VNDCCN đã ký kết Hiệp định Genève với mục
tiêu sẽ thực hiện cuộc Tổng tuyển cử để hiệp thương thống nhất giữa hai miền
Nam và Bắc vào 2 năm sau ngày ký kết như đã quy định (1956). Nhưng chính Mỹ
đã thúc đẩy Chính quyền miền Nam khước từ tổ chức Tổng tuyển cử và công khai
phát động "Bắc tiến"(*).
Ngược lịch sử gần một thập kỷ trước nữa, để
đương đầu với các thế lực nước ngoài muốn tước đoạt lại quyền tự chủ mà nhân
dân Việt Nam mới giành được, Nhà nước Việt Nam Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí
Minh đứng đầu đã luôn chủ động tìm kiếm sự thương lượng nhằm tránh nguy cơ bùng
nổ chiến tranh. Việc ký bản Hiệp ước Sơ bộ ngày 6/3/1946, chấp nhận những
nhượng bộ cần thiết thể hiện rõ nguyện vọng và năng lực chủ động tránh phải
đối đầu quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhà nước Việt Nam Độc lập còn non
trẻ. Nổi bật hơn hết là một sự kiện có thể nói
là hi hữu trong lịch sử ngoại giao thế giới, cũng là một điểm son trong lịch
sử ngoại giao cách mạng Việt Nam là việc Chủ tịch một quốc gia mới giành được
độc lập chưa lâu, đang phải đối phó với vô vàn khó khăn đã sẵn sàng thực hiện
một cuộc vận động ngoại giao ở nước ngoài kéo dài đến hơn 4 tháng (rời Hà Nội
31/5 đến 21/10 về tới Hải Phòng) khi qua Pháp để vận động mưu cầu cho hai
nước tránh được một cuộc chiến tranh nhìn thấy trước là tổn hại đến lợi ích
của cả hai quốc gia. Chuyến thăm chính thức với tư cách là quốc
khách của Chính phủ Cộng hoà Pháp chỉ có vài ngày ở Paris, nhưng Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chủ động lưu lại nước Pháp để theo dõi cuộc đàm phán Pháp-Việt
đang diễn ra tại Fontainebleau. Và khi cuộc đàm phán đổ vỡ, người đứng đầu
Nhà nước Việt Nam đã quyết định nán lại ngay trên nước Pháp cũng đang chia rẽ
về chính sách đối với Đông Dương, để thực hiện hàng trăm cuộc tiếp xúc (theo
thuật ngữ ngoại giao là "vận động hành lang") không chỉ với các
quan chức, các chính khách đang có ảnh hưởng trên chính trường mà cả đông đảo
các tầng lớp nhân sĩ, trí thức và nhân dân Pháp, một số khách nước ngoài
trong đó có các chiến sĩ giải phóng ở Châu Phi để tranh thủ vận động hoà
bình, ngăn chặn chiến tranh và chuẩn bị cho một mặt trận ngoại giao lâu dài. Bản Tạm ước ký vào lúc nửa đêm ngày 14 rạng
sáng ngày 15/9/1946 với Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại Marius Moutet có điều
khoản cuối cùng: "Chính phủ Cộng hoà Pháp và Chính phủ VNDCCH cùng tìm
cách ký kết những bản thoả thuận riêng về bất cứ vấn đề nào có thể thắt chặt
dây liên lạc thân thiện và dọn đường cho một hiệp ước chung dứt khoát. Theo
mục đích ấy, các cuộc đàm phán sẽ tiếp tục càng sớm càng hay và chậm nhất là
vào tháng 1/1947". Nhưng chưa đến thời điểm chậm nhất như đã
thoả thuận thì cuộc chiến tranh đã bùng nổ. Nguyên nhân trực tiếp bùng nổ
cuộc chiến có thể còn có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng những gì mà người đứng
đầu Nhà nước Việt Nam làm đã tỏ rõ nỗ lực và thiện chí hoà hiếu mong muốn
chiến tranh không nổ ra là một bằng chứng sống động về tinh thần sẵn sàng
thương lượng để tìm những giải pháp tốt nhất nếu không phải là ít xấu nhất. Vì thế, khi buộc lòng phải kêu gọi
"Toàn quốc Kháng chiến" thì Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể dõng dạc mở
đầu văn kiện lịch sử này bằng câu: "Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta
phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới
vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa... Không! Chúng ta thà hy sinh
tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ...". Vì thế, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh còn trực
tiếp lãnh đạo, thiện chí sẵn sàng đối thoại cho những cuộc đàm phán nhằm thay
thế cho những xung đột vũ lực được thể hiện rất rõ ràng nhưng có điều kiện.
Cuối năm 1965, giữa lúc Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại ra toàn miền
Bắc, Nghị quyết Trung ương đã dự kiến "đánh đến một lúc nào đó sẽ vừa
đánh vừa đàm" (12/1965). Và cùng với việc chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến
công, Nghị quyết Trung ương 13 (tháng 1/1967) đã khởi động một chiến dịch
ngoại giao rộng lớn để buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán sau một cuộc đối
đầu không phải chỉ bằng vũ khí mà quan trọng hơn là bằng ý chí. Có một chi tiết đáng ghi nhận là văn kiện
cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh (cũng là văn kiện kết thúc trong bộ sách
"Hồ Chí Minh tuyển tập") ký trước ngày từ trần chỉ một tuần
(25/8/1969) lại là bức thư trả lời Tổng thống Mỹ Richard Nixon. Bức thư đã
thể hiện rất rõ thiện chí và những nguyên tắc chỉ đạo cho cuộc đấu tranh trên
bàn đàm phán kết hợp với cuộc chiến đấu không khoan nhượng vì mục tiêu cuối
cùng của mình. Bức thư có đoạn viết: "Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng
hoà bình, một nền hoà bình chân chính trong độc lập và tự do thật sự. Nhân
dân Việt Nam quyết chiến đấu đến cùng không sợ hy sinh gian khổ, để bảo vệ Tổ
quốc và các quyền dân tộc thiêng liêng của mình... Trong thư, Ngài bày tỏ
mong muốn hành động cho một nền hoà bình công bằng. Muốn vậy, Mỹ phải chấm
dứt chiến tranh xâm lược và rút ra khỏi miền Nam Việt Nam, tôn trọng quyền tự
quyết của nhân dân miền Nam và dân tộc Việt Nam, không có sự can thiệp của
nước ngoài... Đó là con đường để Mỹ rút khỏi cuộc chiến tranh trong danh
dự...". Hiện thực sống động của hình thái "vừa
đánh vừa đàm" đã diễn ra trong lịch sử, cũng như nội dung của bản Hiệp
định Paris ký kết năm 1973 và hiện thực 40 năm qua đã khẳng định quan điểm đó
là giải pháp tốt nhất. Bản Hiệp định này đã giúp Mỹ thoát ra khỏi vũng lầy
của một cuộc chiến tranh hao người tốn của và gây sự chia rẽ sâu sắc ngay
trong lòng nước Mỹ. Bản Hiệp định này đã giúp nhân dân Việt Nam hoàn thành
trọn vẹn sự nghiệp thống nhất đất nước của mình để bước vào những thử thách
mới. Cho dù tầm vóc của sự kiện Việt Nam thu hút mối quan tâm của toàn thế
giới trong thời kỳ bị phân liệt thành hai cực của Chiến tranh lạnh thì cuộc
đấu tranh ngoại giao dẫn đến kết quả của Hội nghị và Hiệp định Paris cũng là
cuộc tiếp xúc trực tiếp nhất, có quy mô nhất, ít bị các nước lớn khác chi
phối của nền ngoại giao Việt Nam với một trong những nước lớn nhất là Mỹ. Cho dù còn phải trải qua một chặng đường
hơn hai thập kỷ thử thách gian khổ nữa thì cuối cùng Việt Nam và Mỹ đã bình
thường hoá quan hệ (1995) để từng bước phát triển sự hợp tác và xây dựng mối
tin cậy vì những lợi ích chung của hai quốc gia cũng như nền hoà bình, ổn
định của thế giới. Nó chính là minh chứng cho thành quả mà Hội nghị Paris đã
đạt được. Vì thế mà những bài học rút ra từ sự kiện
lịch sử cách đây bốn thập kỷ liên quan đến một cuộc đàm phán ngoại giao trực
tiếp giữa Việt Nam và Mỹ, đến nay nếu nhận thức cho đúng thì vẫn có những giá
trị tích cực cho những chặng đường sắp tới. Cũng vì thế, lịch sử là quá khứ
luôn hướng tới tương lai. Xuân 2013 Dương Trung Quốc
|
Lượt truy câp: 1837307
Trong ngày:
Đang online: 61