Trong thế giới cổ đại, Ai Cập là quốc gia mà người phụ nữ có địa vị tương đối cao. Không những phụ nữ cung đình quyền quý có địa vị chính trị và tôn giáo cao mà ngay những người phụ nữ lao động bình thường cũng được hưởng những quyền lợi về kinh tế, luật pháp và giao tiếp xã hội như nam giới. Quan hệ nam nữ trong xã hội là quan hệ bình đẳng, trong đó người phụ nữ được xã hội kính trọng. Phụ nữ Ai Cập có quyền được có tài sản riêng, được hưởng một phần tài sản của hai vợ chồng và được quyền làm di chúc để lại số tài sản cho bất kỳ ai. Trong gia đình, người phụ nữ được bình đẳng với chồng, có quyền truy tố chồng ra tòa và ly dị, nhất là trong những trường hợp bị đối xử tệ. Đó là điều mà không phải chỉ những phụ nữ Hy Lạp, La Mã thời bấy giờ khao khát mà ngay cả thời nay, phụ nữ nhiều nước vẫn đang đấu tranh để giành lại.
Từ khóa: phụ nữ Ai Cập, địa vị của người phụ nữ, hôn nhân, gia đình
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong xã hội nguyên thủy, chế độ mẫu hệ xuất hiện và tồn tại trong một thời gian dài. Người phụ nữ lúc đó phải gánh vác những trọng trách nặng nề, lao động cực nhọc nhưng họ hoàn toàn có quyền tự do. Họ cai quản bộ lạc, chăm sóc con cái, còn đàn ông đi kiếm ăn. Bây giờ, lương thực là của chung giúp cho người phụ nữ chiếm ưu thế trong xã hội và gia đình. Dòng dõi của con cái sinh ra được xác định về bên mẹ. Tất cả đã tạo nên cơ sở cho sự thống trị của người phụ nữ. Nhưng khi nền kinh tế phát triển, nhất là khi bước vào thời đại kim khí, vai trò của người đàn ông trong xã hội ngày càng được nâng cao, chế độ phụ hệ dần được xác lập. Từ đó, vị trí và vai trò của người phụ nữ bị suy giảm hơn so với trước. Người vợ buộc phải phục tùng quyền lực tuyệt đối của chồng, thậm chí còn bị đối xử rất tệ bạc. Khi bước vào xã hội văn minh thời cổ đại, địa vị của người phụ nữ ngày càng thấp kém nhưng Ai Cập là một trong số ít các quốc gia còn duy trì được địa vị và quyền lợi của người phụ nữ như trong chế độ mẫu hệ thời nguyên thủy.
Ai Cập cổ đại là trung tâm văn minh sớm nhất thế giới cổ đại, ra đời vào cuối thiên niên kỷ IV TCN, ở lưu vực sông Nil, phía Đông Bắc châu Phi. Nền văn minh Ai Cập nổi tiếng với các kim tự tháp hùng vĩ, những bức tượng khổng lồ, những xác ướp còn tồn tại đến ngày nay… Chính vì vậy, đã có rất nhiều nhà khoa học, nhà khảo cổ học tìm hiểu, nghiên cứu và khám phá về đất nước có nhiều điều bí ẩn này. Nhưng các tác giả với các tác phẩm, chủ yếu tập trung nghiên cứu thiết chế chính trị, tình hình kinh tế, xã hội và thành tựu văn hóa rực rỡ của Ai Cập qua các triều đại. Cho đến nay, chưa có một tác giả và tác phẩm nào đi sâu nghiên cứu về địa vị và đời sống của người phụ nữ Ai Cập thời cổ đại. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi tập trung tìm hiểu các tài liệu khảo cổ học mà các nhà khảo cổ đã khai quật được ở Ai Cập như: những ngôi mộ hoàng tộc và các đền đài, các xác ướp, các bích họa và tượng, những ngôi nhà, làng mạc cùng với những đồ dùng hàng ngày của người xưa để lại… Các phát hiện ấy giúp chúng ta hiểu rõ hơn, tín ngưỡng và lối sống của cư dân mà trong đó phản ánh rõ nét đời sống và địa vị của người phụ nữ. Phụ nữ Ai Cập có địa vị ngang bằng thậm chí trong một số lĩnh vực còn hơn hẳn nam giới. Đó là một điểm tiến bộ, làm nên những giá trị của của nền văn minh Ai Cập.
II. VỀ CHÍNH TRỊ- XÃ HỘI
Khác với các quốc gia cổ đại phương Đông, những phụ nữ trong các cung đình có địa vị chính trị tương đối cao. Hầu hết các Pharaông có nhiều vợ nhưng chỉ có một người được công nhận là “chính cung”. Bà là đệ nhất phu nhân của vương quốc. Tiếp sau là bà mẹ sinh ra nhà vua, bà cũng được mọi người rất kính trọng. Hoàng tử có đủ tư cách kế vị hay không phải xem đó có phải là con của chính cung hoàng hậu hay không. Nếu không phải là con trai của hoàng hậu mà là con của thứ phi thì phải lấy con gái hoặc em gái của hoàng hậu, thậm chí phải lấy hoàng hậu thì mới có tư cách trở thành quốc vương. Do đó, hoàng hậu của các triều đại giữ địa vị cực kỳ quan trọng trong gia tộc, thường tham dự vào các hoạt động chính trị của nhà nước.
Trở thành người đứng đầu của một quốc gia, một dân tộc chưa bao giờ là điều dễ dàng, đặc biệt là đối với một người phụ nữ. Vậy mà ở Ai Cập, nhiều phụ nữ Ai Cập đã trở thành Nữ hoàng cai trị đất nước trong một thời gian dài.
Nữ hoàng Hatchepsut đã trị vì Ai Cập từ 1479 TCN đến 1457 TCN. Bà lên nắm quyền sau khi người anh trai, đồng thời cũng là chồng mình, Pharaong Thutmose II qua đời mà không có người kế vị. Hatshepsut là người phụ nữ duy nhất được trao tước hiệu Pharaong ở Ai Cập. Một số biểu tượng mô tả bà đeo bộ râu giả và mặc trang phục của các vị đế vương. Đền thờ của Hatshepsut cho thấy những thành tựu đã đạt được trong thời gian bà cai trị. Bà đã cho mở rộng giao thương xuống phía Nam vốn bị gián đoạn bởi chiến tranh. Bà đã thành lập một đội quân gồm toàn nữ thủy thủ, có nhiệm vụ thám hiểm vùng đất Punt (Nam châu Phi). Chính đội quân này đã mang về Ai Cập nhiều hàng hóa có giá trị: gỗ mun, vàng, những động vật hiếm và cây cảnh lạ. Một lời ca ngợi bên dưới bức điêu khắc trong đền thờ của bà: “Chưa từng có vị vua nào trong lịch sử có thể mang về cho đất nước mình nhiều thứ như thế”[1, tr.1145].
Công trình Kim tự tháp của Hatshepsut là một trong những công trình xây dựng thể hiện tham vọng của vị nữ Pharaong này so với các vị Pharaong khác. Bà đã xây dựng hai tòa tháp cao hơn 30m tại Tebơ, trung tâm hoàng tộc và tín ngưỡng của triều đại Thutmose. Xung quanh đó, bà đã cho xây dựng những con đường hùng vĩ và những đền thờ uy nghiêm. Tất cả những chi tiết này chứng tỏ quyền lực của vị Nữ hoàng này là rất lớn trong thời gian trị vì.
Nữ hoàng Nefertiti (1370- 1330 TCN) là vợ của vị Pharaong vĩ đại Amenkhôtep. Chính theo ý thích của Nefertiti, Amenkhôtep đã trao cho nàng quyền lực tối ưu trong một loại hình tôn giáo mới, nhằm tôn vinh vị thần mặt trời Aton trên mọi thần khác. Nefertiti được tôn vinh làm Nữ thần bảo hộ nhà vua thay thế các vị thần Isis, Nephthys, Selket và Neith trong tín ngưỡng cổ Ai Cập. Khi triều đại Amenkhôtep đã suy tàn, Nefertiti càng trở nên quyền lực hơn. Có thể vị vua này đã bổ nhiệm bà là người đồng nhiếp chính. Nefertiti đã trở thànhPharaông Nefemeruaten, nghĩa là “Người đàn bà mỹ lệ của Vầng hào quang sáng chói Aton”. Hoàng hậu Nefertiti được coi là người phụ nữ đẹp nhất thế giới trong thời đại của mình. Bà không những được coi là biểu tượng sắc đẹp của thời cổ đại mà còn là nguồn cảm hứng cho các phong cách trang điểm, trang phục, trang sức những năm sau này.
Cleopatra VII (69- 30 TCN), là con gái của vua Ai Cập thuộc triều đại Ptolemy. Bà là một Nữ hoàng Ai Cập nổi tiếng về sắc đẹp quyến rũ, tính tình sắc sảo, thích quyền lực. Ngay từ khi còn nhỏ, bà đã cai trị đất nước cùng với cha. Sau khi vua cha mất, dựa vào tướng La Mã là Xêda và Ăngtoan, bà lên ngôi Nữ hoàng Ai Cập (năm 51 TCN) và chi phối các công việc chính trị của đất nước.
Ở Ai Cập thời cổ đại, còn nhiều nữ hoàng có quyền lực chính trị to lớn khác. Đây là điều mà không phải một quốc gia cổ đại nào cũng có được. Phụ nữ Hy Lạp cổ đại không được tham gia vào công việc chính trị, không được hưởng quyền công dân bởi họ không được tham dự vào các Đại hội nhân dân, không thể giữ chức vụ trong guồng máy cai trị hay bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử.
Phụ nữ Ai Cập cổ đại được hưởng đầy đủ quyền giao tiếp xã hội. Họ được phép có mặt ở những chỗ công cộng như chợ phiên, nơi vui chơi giải trí, những buổi yến tiệc mà không bị cấm đoán, hạn chế. Phụ nữ thích chơi nhạc hoặc múa vào các dịp lễ hội hoặc tiệc tùng và một số người còn coi đó là nghề của mình. Họ đã chơi nhiều loại nhạc cụ khác nhau như cây đàn lia cổ có bảy dây, đàn hạc, đàn luýt, sáo... Một số bài hát còn lưu lại đến ngày nay nhưng âm nhạc thì không để lại dấu vết vì không được ghi chép.
Phụ nữ Ai Cập rất quan tâm đến hình thức bề ngoài. Điều đó thể hiện địa vị xã hội cao của họ. Áo quần nhiều vẻ, không bị gò bó theo quy định như phụ nữ Trung Quốc thời cổ trung đại. Họ mặc quần áo bằng vải lanh, một loại vải mỏng và thoáng mát rất thích hợp với khí hậu nóng bức của đất nước. Phụ nữ Ai Cập tự dệt lấy quần áo và dệt thành những bộ có hoa văn, màu sắc rất đẹp. Tấm áo dài, bó sát người và có nếp là mốt thời Trung đế chế, được các bà mặc trong những bữa cỗ bàn, tiệc tùng.
Ở Ai Cập, người phụ nữ biết dùng son phấn sớm nhất thế giới. Mỹ phẩm của Ai Cập thời kỳ này được làm từ chất khoáng. Phấn đen tô mắt có gốc galen (sulphua), phấn xanh malachite (xanh đồng) và son đỏ tô môi thì làm từ ôxit sắt, còn phấn xoa má thì được làm từ đất xét đỏ. Người ta tô mắt chắc hẳn để bảo vệ đôi mắt chống lại nắng gắt. Trong tác phẩm điêu khắc “Bức tượng chân dung Nữ hoàng Nefertiti”, chúng ta thấy, lông mày và môi của tượng đều tô màu, da màu rám nắng thẫm.
Ngoài ra, phụ nữ Ai Cập cũng rất quan tâm đến đầu tóc. Họ gội đầu thường xuyên và hay nhuộm tóc màu đỏ da cam. Những gia đình giàu có thường có thợ làm đầu. Họ còn dùng tóc giả với những mái tóc dài và cầu kỳ hơn, bên dưới tóc giả, đầu nhiều khi được cạo trọc. Đặc biệt, việc sử dụng nước hoa trở nên rất phổ biến ở những người phụ nữ tầng lớp trên trong xã hội Ai Cập cổ đại. Các loại nước hoa được làm từ trầm hương, nhựa trầm hương và các loại tinh dầu quý. Phụ nữ Ai Cập đều biết cách trang điểm, họ không chỉ trang điểm cho riêng mình mà còn trang điểm cho con cái và chồng mình trong những dịp đặc biệt. Trong những ngày lễ quan trọng, những người phụ nữ đều mang tóc giả, tô son đánh phấn, xức nước hoa và đeo đồ trang sức.
Phụ nữ khi chết được chôn chung với chồng mình, cùng hưởng chung sự sang trọng của ngôi mộ tùy theo đẳng cấp của chồng. Các phụ nữ hưởng đặc quyền có thể được ban tặng rất nhiều nữ trang, kiềng cổ và những đồ trang sức khác. Những phụ nữ hoàng tộc hoặc phụ nữ của những gia đình giàu có còn được ướp xác như đàn ông. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy xác ướp của Nữ hoàng Hatshepsut, của các hoàng hậu và các phụ nữ khác tại Thung lũng các vị vua đã chứng minh điều này.
Người phụ nữ Ai Cập cũng giữ địa vị khá cao trong lĩnh vực tôn giáo. Địa vị này được thể hiện qua hệ thống các nữ thần. Người Ai Cập thời cổ đại thờ hàng trăm vị thần linh khác nhau với ý niệm các vị thần này sẽ che chở cho con người trong cuộc sống hàng ngày. Trong số hàng trăm vị thần ở Ai Cập, có rất nhiều nữ thần bảo trợ cho người phụ nữ và cho các hoạt động khác của con người: Hathor- nữ thần bầu trời; Maat- nữ thần sự thật, công lý và sự hài hòa của thế giới; Mout- nữ thần đầu chim kền kền được thể hiện như thần mẹ của nhà vua đang trị vì; Isis- nữ thần sinh đẻ, là vợ của thần Osiris và mẹ của thần Horus; nữ thần tổ ấm Toaueret hoặc “nữ thần Lớn”, mang hình một con hà mã cái bụng chửa, đây là nữ thần bảo trợ cho những người phụ nữ trong lúc sinh nở… Như vậy, thông qua tôn giáo, tín ngưỡng, địa vị cao của người phụ nữ trong xã hội Ai Cập càng được khẳng định.
III. VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Trong tầng lớp bình dân, tình yêu nam nữ về cơ bản được tự do. Đàn ông và phụ nữ Ai Cập đã xem hôn nhân là điều đáng khát khao nhất và thường thành gia thất ở tuổi thiếu niên. Nhiều cô gái lấy chồng từ tuổi mười hai, mười ba và thường kém chồng vài tuổi. Trên bàn tay của một xác ướp Ai Cập, người ta đọc thấy một dòng chữ viết tay chỉ ra rằng, đó là xác của một phụ nữ đã kết hôn và mất vào lúc 11 tuổi.
Hôn nhân không được hợp thức hóa bằng một nghi lễ tôn giáo, một đám cưới thực sự cũng như không được đăng ký trước một cấp chính quyền mà chỉ có sự thỏa thuận trước người làm chứng giữa hai bên nam nữ muốn lập gia đình với nhau. Sự thỏa thuận này làm cho việc kết hôn được nhân lên thành một sự cam kết đặc biệt về tinh thần. Đôi khi có thể có một hợp đồng công nhận tài sản của mỗi bên. Mục đích của hợp đồng này chủ yếu nhằm bảo vệ quyền lợi của người vợ khi người vợ hay người chồng đòi ly dị. Những điều đó, kết hợp với ý thức về lẽ phải đã góp phần củng cố sự ổn định về hôn nhân và gia đình. Mặt khác, hôn nhân ở Ai Cập cổ đại đều rất chú ý đến sự ưng thuận của các đôi trai gái. Trong các bản khế ước hôn nhân, người đàn ông phải ký tên bằng một dòng chữ “Tôi đã lấy em làm vợ” và người phụ nữ cũng có quyền của mình, mặc dù chỉ là câu “Anh đã lấy tôi làm vợ”. Đây là quan điểm rất tiến bộ, khác hẳn với quan điểm “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy” trong hôn nhân của một số quốc gia khác trên thế giới thời bấy giờ.
Chế độ hôn nhân ở Ai Cập cũng rất tiến bộ, đó là chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Bởi những khế ước hôn nhân luôn đảm bảo quyền lợi vật chất cho vợ con họ một cách tốt nhất. Trước khi lấy vợ, người đàn ông phải trả cho bố vợ tương lai một khoản tiền khá lớn. Sau khi ly dị, người chồng bắt buộc phải nuôi người vợ cũ của mình với số tiền bằng 1/3 thu nhập của anh ta. Những quy định này khiến hầu hết đàn ông Ai Cập chỉ có điều kiện lấy một vợ mà thôi. Luật pháp Ai Cập cũng có nhiều điều khoản bảo vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em. Nếu người chồng bỏ rơi vợ con thì phải xử phạt rất nặng về kinh tế.
Một đặc điểm nữa của đám cưới thời Ai Cập cổ đại là phải “môn đăng hộ đối”. Cả hai đều phải xuất thân từ cùng một tầng lớp xã hội. Người ta không quan tâm tới chủng tộc hay quốc tịch. Vua thường hết hôn với những cô gái từ vương quốc khác làm vợ hai. Vua Ramsset II đã cưới công chúa của Hítti và phong chức hoàng hậu như người vợ đầu tiên của mình. Ngay cả những nữ nô lệ cũng được hưởng nhiều đặc quyền trong hôn nhân. Muốn có được cuộc hôn nhân bình thường, những cô gái nô lệ phải mua tự do cho mình hoặc làm con nuôi của một người tự do trước khi lấy chồng. Sau những cuộc hôn nhân này, những nữ nô lệ này sẽ trở thành người công dân và được hưởng mọi đặc quyền của một người phụ nữ trong xã hội. Người đàn ông được tự do nhận những đứa con nô lệ mà ông ta đã sinh ra làm con nuôi.
Khát khao có con cái thật phổ biến như một bảo đảm để đối phó với tương lai. Một nhà thông thái thuộc triều đại XVIII đã khuyên nhủ “hãy lấy vợ khi bạn còn trẻ để cô ta có thể sinh con trai cho bạn. Hạnh phúc thay người đàn ông có nhiều con cái vì anh ta được kính trọng nhờ con cái của mình” [5, tr.29]. Người phụ nữ thực hiện thiên chức của mình là sinh đẻ và nuôi dạy con cái. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện được những bức tượng thể hiện sự mắn đẻ trong các ngôi đền, ngôi mộ và ngôi nhà. Những bức tượng này được dâng lên nữ thần Hathor “bà trời” mà người Ai Cập cho là đóng vai trò chủ chốt trong số phận của trẻ sơ sinh. Có nhiều bức tượng khác thể hiện tâm trạng của người đàn bà mong muốn sinh được nhiều con.
Trong gia đình, quan hệ vợ chồng được rập theo mối quan hệ giữa các cặp vợ chồng Thần Thánh “thời cổ sơ” hoàn toàn bình đẳng. Họ được chồng yêu quý và kính trọng. Phụ nữ Ai Cập giữ vai trò rất quan trọng trong gia đình, họ được phong là “nội tướng” giúp đỡ ý kiến cho chồng, trông nom quán xuyến mọi công việc trong nhà và đóng góp một phần rất lớn vào sự thịnh vượng của gia đình. Được chồng chiều chuộng, được sự kính nể của con cái mà mình mong cho đông đàn dài lũ, người phụ nữ tìm thấy hạnh phúc ở chỗ cảm thấy mình là cột trụ trong nhà và của tập thể gia đình. Con trai cũng như con gái đều được chia sẻ một cách công bằng sự chú ý chăm sóc của bố mẹ.
Tuy nhiên, trong trường hợp, khi người phụ nữ bị chồng đối xử tệ bạc hoặc khi cuộc sống gia đình không hạnh phúc, người vợ có quyền truy tố chồng ra tòa và ly dị chồng mà không cần có thẩm quyền của người cha và người chồng của họ. Luật pháp Ai Cập có nhiều điều khoản bảo vệ những người phụ nữ ly hôn. Họ được mang đi toàn bộ tài sản riêng của mình và được hưởng một phần ba số tài sản của hai vợ chồng. Sau khi ly hôn, người chồng vẫn phải chu cấp tiền cho vợ của mình. Thậm chí, khi người chồng buộc phải trả lại cho người vợ mà mình ly dị những gì người vợ đã mang về nhà chồng thì người chồng gần như bị phá sản. Các quy định này đã bảo đảm cho quyền lợi của người phụ nữ, có quyền quyết định số phận của mình đồng thời là cơ sở để buộc người chồng thực hiện nghĩa vụ đối với vợ. Tuy nhiên, ở Ai Cập, phụ nữ Ai Cập rất ít khi sử dụng đến quyền này bởi ngày nay, các nhà khảo cổ học tìm thấy nhiều bằng chứng trong nhiều bức tranh, bức tượng cảm động về gia đình, cha mẹ, con cái… cho thấy những cặp vợ chồng Ai Cập cổ đại thường chung sống rất hạnh phúc.
Trong khi đó, ở Lưỡng Hà cổ đại, theo điều khoản 129 của bộ luật Hammurabi, người chồng là “ông chủ”, nghĩa là kẻ chiếm hữu đầy quyền hành với vợ mình. Người chồng mua vợ về như mua nô lệ. Bộ luật đã thể hiện địa vị thấp kém và dễ bị xâm hại của người phụ nữ ở xã hội Lưỡng Hà cổ đại. Mặt khác, ở Ấn Độ, trong quan hệ hôn nhân, phụ nữ cũng bị phân biệt so với đàn ông. Điều 46, chương 9 của luật Manu quy định việc vợ bị tước quyền ly hôn, tức là phụ nữ không được bỏ chồng dù cho người chồng đó tệ bạc như thế nào. Điều 47, chương 9 của luật cho phép chồng được quyền bỏ vợ nếu người vợ ghét chồng. Như vậy, trong xã hội cổ đại, phụ nữ ở Ai Cập có quyền bình đẳng với đàn ông trong lĩnh vực hôn nhân hơn hẳn một vài quốc gia khác.
IV. VỀ TÀI SẢN
Đa số phụ nữ Ai Cập là những người nông dân ít được học hành nhưng họ đã có được một số quyền hành mà các phụ nữ thuộc các xã hội Hy Lạp- La Mã không có. Đáng lưu ý nhất là tầm quan trọng của quyền sở hữu đất đai của người phụ nữ. Đất đai trong cả nước thuộc quyền sở hữu của nhà nước, chia cho các công xã nông thôn quản lý nhưng người phụ nữ cũng được chia ruộng đất như nam giới, số đất đai này sẽ được trao từ mẹ sang con gái. Người ta cho rằng có lẽ vì chuyện mẹ của một người là ai luôn là điều rõ ràng, trong khi quan hệ cha con là chuyện không lấy gì làm chắc. Tương tự, người ta thường khẳng định lai lịch của mình bằng cách nêu tên mẹ, chứ không phải tên của cha. Đây là điều khá đặc biệt ở Ai Cập cổ đại, chứng tỏ vai trò và vị trí của người phụ nữ.
Phương pháp chuyển giao tài sản có nghĩa là phụ nữ có thể sở hữu và cai quản đất đai và tài sản khác. Do đó, phụ nữ Ai Cập khi lấy chồng không phải chuyển tài sản cho chồng mình. Mặt khác phụ nữ có chồng vẫn có quyền quản lý tài sản riêng của mình, được quyền hưởng một phần tài sản của chồng. Phụ nữ cũng có thể khởi kiện, mua bán tài sản và làm di chúc. Người chồng không có quyền pháp lý đối với tài sản của vợ. Phụ nữ được tùy ý để lại di sản của mình cho bất cứ người con nào mà mình muốn cho thừa kế.
Trong các gia đình Ai Cập, người con trai trưởng vẫn nắm đầy đủ mọi quyền hành. Nhưng anh ta không phải là người thừa kế toàn bộ tài sản của cha mẹ. Số tài sản đó được chia đều cho tất cả con cái, không phân biệt nam nữ. Khi lấy chồng, người phụ nữ được mang theo số tài sản mà cha mẹ chia cho về nhà chồng. Như vậy, qua quyền thừa kế tài sản đã cho thấy, phụ nữ Ai Cập cũng như nam giới được cấp đầy đủ các quyền theo luật pháp của đất nước. Trong khi đó, ở La Mã cổ đại, một thiếu nữ khi lập gia đình thì mất hoàn toàn quyền sở hữu tài sản trong gia đình của mình.
V. VỀ CÔNG VIỆC CỦA PHỤ NỮ
Những người phụ nữ Ai Cập thuộc tầng lớp giữa và dưới đều được ngang hàng với nam giới về kinh tế. Họ có thể có nghề nghiệp riêng và hưởng thù lao như nam giới.
Đối với người Ai Cập, việc ăn uống và cỗ bàn là chuyện rất được chú ý. Những gia đình giàu có ăn thịt, uống rượu vang và làm cỗ bàn sang trọng mời bạn bè. Người nghèo chỉ có những bữa ăn đạm bạc với bánh mì, cá và bia. Do đó, đàn bà, con gái dành nhiều thời gian ở nhà để làm bánh, làm rượu bia và thổi nấu. Tại những gia đình giàu có, những công việc ấy được giao cho những người hầu gái. Vì vậy, những phụ nữ quyền quý dành nhiều thời gian đi tế lễ, vui chơi giải trí và nuôi dạy con cái. Tại những gia đình nghèo, phụ nữ phải tham gia công việc đồng áng, nhất là khi nhân công nam giới không đủ. Một số phụ nữ làm thợ bánh mỳ, thợ dệt. Một số phụ nữ làm nghề ca múa và biểu diễn vào các dịp lễ hội, các cuộc tiệc tùng gia đình. Ngoài ra, phụ nữ Ai Cập cũng có thể đi mua sắm, một sự kiện mà sử gia Hy Lạp- Hêrôdôt, lưu ý với đầy vẻ ngạc nhiên khi ông viếng thăm Ai Cập, điều mà ông rất ít thấy ở một quốc gia nào khác thời bấy giờ. Ở Hy Lạp lúc bấy giờ, tiêu chuẩn để xác định đức hạnh của một người phụ nữ là sự chăm chỉ, nhẫn nhục chịu đựng và luôn trong cánh cửa giới hạn của gia đình. Họ bị cấm cung và chỉ giao thiệp với những người đàn bà khác.
Đàn ông thường nắm giữ những chức vụ quan trọng ở quốc gia và trong hệ thống quan lại. Bên dưới mức độ ảnh hưởng chính trị này, phụ nữ đã thực hiện những trách nhiệm như giám sát thợ dệt, ca sĩ và đầu bếp; một số là thủ quỹ cho những cơ sở buôn bán tư nhân. Một nghề được kính trọng là nghề bà mụ và những bà mụ đã đỡ đẻ cho đa số trẻ sơ sinh ở Ai Cập. Nhiều phụ nữ làm nghề khóc mướn cho các đám ma, để làm tăng thêm không khí đau buồn của lễ tang. Tiễn đưa người quá cố về thế giới bên kia thường có hai người đàn bà khóc mướn, biểu trưng cho hai nữ thần Isis và Nephthy khóc em trai Osiris. Những người khóc mướn khác thì bôi tro lên mặt và đấm ngực để biểu thị sự đau buồn.
Trong số các chức vụ cao dành cho phụ nữ có nghề thầy tế lễ, thường bao gồm các nữ tu sĩ tụng kinh hay chơi nhạc cụ ở các ngôi đền. Những nữ tu này thường mặc một bộ áo da báo để thể hiện chức sắc tôn giáo của mình.
Thật ra, không phải tất cả các trẻ em Ai Cập đều được đến trường, con gái nói chung lại càng ít được đi học so với con trai. Tuy vậy, cũng có một số con gái được học lên một cấp khá cao. Vì vậy, phụ nữ đã có thể làm nhiều nghề khác nhau trong cơ quan nhà nước, trong ngành thương mại thậm chí làm cả những nghề thuộc ngành khoa học: nghề thầy thuốc. Trong lịch sử loài người, phu nhân Pesechet là người đã trị bệnh cứu người ở Memphis từ thời các Kim Tự tháp, vào thiên niên kỷ III TCN.
Tóm lại, Ở Ai Cập cổ đại, phụ nữ có địa vị xã hội bình đẳng với nam giới, thậm chí còn có nhiều đặc quyền hơn. Đây là điểm tiến bộ hơn rất nhiều so với các nền văn minh khác trên thế giới thời bấy giờ. Đó cũng là một trong những đặc trưng chủ yếu của nền văn minh Ai Cập thời cổ đại. Nhân loại ngày nay vẫn đánh giá cao nền văn minh rực rỡ này không chỉ bởi những giá trị vật chất mà cư dân Ai Cập đã sáng tạo nên mà ở cả những quan niệm tốt đẹp của xã hội đối với quyền lợi của người phụ nữ. Trong xã hội hiện đại ngày nay, địa vị của người phụ nữ ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, ở một số quốc gia trên thế giới, nhiều người phụ nữ vẫn bị đối xử một cách tệ bạc như không được tham gia vào hệ thống chính trị, không được tự do kết hôn, không được thừa kế tài sản, không được hưởng những phúc lợi xã hội… Do đó, vấn đề đấu tranh đòi quyền bình đẳng giới vẫn đang diễn ra tại nhiều quốc gia trên thế giới. Chính vì vậy, việc nhìn nhận và đánh giá đúng đắn địa vị cao của người phụ nữ Ai Cập cho thấy quan niệm tiến bộ và trình độ văn minh của cư dân Ai Cập cổ đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Almanach những nền văn minh thế giới, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1995.
2. Avđiev V.I, Lịch sử phương Đông cổ đại, Matxcơva, 1970.
3. Ănghen, Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước, Mác- Ănghen tuyển tập, Tập 2, Nxb Sự Thật, HN, 1962.
4. Nguyễn Quốc Hùng (Chủ biên), Những nền văn minh rực rỡ cổ xưa, Tập 1 (Ai Cập, Tây Á, Ấn Độ), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993.
5. Mortimer Chambers, Barbara Hanawalt, David Herlihy, Theodore K.Rabb, Isser Woloch, Raymond Grew, Lịch sử văn minh phương Tây, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà nội, 2004.
6. Lương Ninh (chủ biên), Lịch sử thế giới cổ đại, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2005.
7. Chiêm Tế, Lịch sử thế giới cổ đại, Tập 1,2, Nxb Giáo dục, HN, 1978.
SUMMARY
STATUS OF WOMEN IN ANCIENT EGYPT SOCIETY
Duong Thi Huyen
College of Sciences – Thai Nguyen University
In the ancient world, Egypt was a country where women had relatively high status. Not only royal women Elites had the political and religious high but also those women with normal labor and enjoy the benefits of economic, legal and social interaction as men. Relations between men and women in society were equal relationship, in which women were socially respected. Egypt women had the right to own property, enjoy a couple's assets and were entitled to make a would leaving the property to anyone. In families, women were equal as her husband, had the right to prosecute in court and divorced her husband, especially in cases of being badly treated. That's what these women not only Greek, Roman desired at that time but also today, many countries women are still struggling to regain.
Keywords: Egyptian women, status of women, marriage, family
Tác giả: Dương Thị Huyền; Email: duonghuyen.sudhkh@gmail.com; SĐT: 0975702362
Lượt truy câp: 1837307
Trong ngày:
Đang online: 16