Trung đoàn Thủ đô, Ngày về lịch sử
[ 12/11/2012 20:59 PM | Lượt xem: 4068 ]
TCCSĐT - Thế hệ đầu tiên của Trung đoàn Thủ đô sau 60 ngày đêm chiến đấu “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” bảo vệ Thủ đô Hà Nội, đã thực hiện thành công cuộc rút lui thần kỳ bảo toàn lực lượng để kháng chiến lâu dài. Ra khỏi Thủ đô, trong tâm tưởng cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn da diết một nỗi nhớ Hà Nội khôn nguôi.


Ra đi hẹn một ngày về

“Có đoàn người lên đóng trên rừng sâu

Đêm nay mơ thấy trở về Hà Nội

Bao giờ trở lại?

Phố phường xưa gạch ngói ngang đường

Ôi đêm nay họ nhớ mái nhà hoang

Bức tường đổ điêu tàn ngày xưa trấn ngự

Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa

Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng…”


Năm 1947, Chính Hữu, nhà thơ của Trung đoàn đã viết những dòng thơ trên và Lương Ngọc Trác, nhạc sĩ của Trung đoàn đã phổ nhạc. Cùng với những ca khúc khác như "Mơ đời chiến sĩ", "Trường Chinh ca", ca khúc "Ngày về" (nhạc Lương Ngọc Trác, thơ Chính Hữu) đã phản ánh đúng tâm trạng của chúng tôi ngày ấy. Ai ai cũng mơ tới Ngày về, hẹn một Ngày về, và trong trí tưởng tượng của chúng tôi, Ngày về sẽ là một cuộc chiến đấu quyết liệt.

Chính Hữu viết:

Súng chuốt, gươm lau, mắt ngời sáng quắc

A ha! Nhà xiêu mái sập

Xác oan cừu ngập lối chân đi

Gạch ngói xưa mừng đón gót lưu ly

Bước căm giận xéo quân thù lớp lớp…

Thế rồi đến năm 1954, ngày 10 tháng 10, Trung đoàn Thủ đô dẫn đầu đội hình của Đại đoàn Quân Tiên phong 308 tiến vào tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Ngày giải phóng Thủ đô đã diễn ra đúng như nhạc sĩ Văn Cao đã tưởng tượng và sáng tác ca khúc “Tiến về Hà Nội” từ năm 1949:

Trùng trùng quân đi như sóng

Lớp lớp đoàn quân tiến về

Chúng ta đi nghe vui, lúc quân thù đầu hàng

Cờ ngày nào tung bay trên phố

Trùng trùng say trong câu hát

Lấp lánh lưỡi lê sáng ngời

Chúng ta đem vinh quang, sức dân tộc trở về

Cả cuộc đời tươi vui về đây

Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về…


Ngày giải phóng Thủ đô đã diễn ra như ngày hội.

Không phải đánh vào Hà Nội mà vẫn giải phóng Hà Nội, đó là kết quả của sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Hồ Chủ tịch, tài thao lược của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, sự hy sinh chiến đấu của toàn dân suốt chín năm kháng chiến trường kỳ, “Chín năm làm một Điện Biên, nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” (Tố Hữu). Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã đưa đến kết quả giải phóng miền Bắc và giải phóng Thủ đô Hà Nội.

Đeo huy hiệu “Chiến sĩ Điện Biên Phủ” trên ngực, các chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô trở về với đất mẹ, với thành phố quê hương nơi sinh ra Trung đoàn. Ngày 10-10-1954 đối với nhân dân cả nước là ngày Giải phóng Thủ đô, còn đối với Trung đoàn Thủ đô, đó là Ngày về, Ngày về lịch sử mà thế hệ chúng tôi hằng mơ ước suốt chặng đường vạn dặm của cuộc Kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Tiểu đoàn Bình Ca, đơn vị đầu tiên rút ra khỏi Hà Nội năm 1947 lại là đơn vị đầu tiên vào tiếp quản Thủ đô năm 1954 


Theo các điều khoản của Hiệp định Giơ-ne-vơ và Hội nghị Trung Giã của Ủy ban Liên hiệp đình chiến, Hà Nội thuộc khu vực 80 ngày, Hải Phòng thuộc khu vực 300 ngày để quân Pháp rút.

 
Tiểu đoàn Bình Ca trên Cầu Đuống, chuẩn bị tiến vào Hà Nội ngày 8-10-1954, người đi đầu với sĩ quan Pháp là chính trị viên tiểu đoàn Vũ Huy Hậu.

Ngày 8-10-1954, đúng 80 ngày sau khi ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ (ngày 20-7-1954), tiểu đoàn Bình Ca (Trung đoàn Thủ đô, Đại đoàn 308) dưới danh nghĩa một đơn vị cảnh vệ là đơn vị bộ đội đầu tiên tiến vào Hà Nội tiếp quản 35 vị trí có quân Pháp chiếm đóng. Một đoàn cán bộ dân chính hơn 200 người do đồng chí Trần Danh Tuyên dẫn đầu đã vào Hà Nội ngày 2-10-1954. Ngày 8-10-1954, quân viễn chinh Pháp làm lễ hạ cờ. Ngày 9-10-1954, quân Pháp bắt đầu rút khỏi Hà Nội. Quân Pháp rút đến đâu, quân ta tiếp quản đến đấy. Đến 16 giờ 30 phút ngày 9-10-1954, quân Pháp rút hết qua cầu Long Biên. Ngày 10-10-1954, đại quân ta tiến vào trong sự đón tiếp tưng bừng của nhân dân Hà Nội. Đó là quá trình tiếp quản Thủ đô.

Sự kiện Tiểu đoàn Bình Ca có vinh dự là đơn vị bộ đội đầu tiên vào tiếp quản Thủ đô là một sự trùng hợp lịch sử hiếm thấy, vì đó chính là đơn vị đầu tiên được lệnh rút ra khỏi Thủ đô hồi đầu kháng chiến toàn quốc. Các cựu chiến binh Tiểu đoàn Bình Ca rất tự hào về đơn vị mình là nhân chứng lịch sử hai đầu sự kiện: Ra đi và Ngày về. Tiểu đoàn Bình Ca là đơn vị đầu tiên thực hiện lời thề của các chiến sĩ Thủ đô "Ra đi, hẹn một Ngày về”.

Lúc đánh trận Bình Ca, tôi là chính trị viên đầu tiên của tiểu đoàn, còn khi về tiếp quản Thủ đô thì anh Vũ Huy Hậu là chính trị viên cuối cùng trong Kháng chiến chống Pháp.

Trước khi vào Hà Nội, các chiến sĩ đã được quán triệt nhiệm vụ là: tiếp nhận sự bàn giao các vị trí đóng quân của Pháp; bảo vệ và làm hậu thuẫn cho các cơ sở cách mạng và nhân dân đấu tranh chống địch khủng bố, cướp bóc, phá hoại; bảo đảm an toàn cho Đại đoàn vào tiếp quản Thủ đô ngày 10-10-1954; bảo đảm đời sống bình thường của Thủ đô, đặc biệt là điện và nước.

Tiểu đoàn chọn 215 người, trong số hơn 400 cán bộ chiến sĩ, chia làm 35 tổ vào tiếp quản 35 vị trí có quân Pháp chiếm đóng. Mỗi tổ có ít nhất 3 người, hai tổ vào tiếp quản Nhà máy nước và điện, mỗi tổ 13 người do đại đội trưởng và chính trị viên đại đội chủ công 261 chỉ huy.

Sáng ngày 8-10-1954, tiểu đoàn tiến vào Cầu Đuống. Một đoàn xe GMC và 3 xe bọc thép của quân Pháp chở quân ta đến Ban Liên hiệp đình chiến đóng tại Nhà thương Đồn Thủy (nay là Bệnh viện Trung ương Quân đội 108). Trong các cuộc tiếp xúc, trên tư thế người chiến thắng, quân ta chủ động tạo không khí thân thiện, hô khẩu hiệu “Vive la Paix” (Hòa bình muôn năm). Bầu không khí căng thẳng nghi ngại ban đầu được xua tan. Anh em ta chủ động tiếp xúc tuyên truyền địch vận dưới nhiều hình thức như cắm hoa đầu súng để tỏ thiện chí hòa bình, xem ảnh vợ con lính Pháp rồi ra hiệu về nước. Đồng chí nào biết tiếng Pháp thì nói: Paix! Rapatriement! (Hòa bình! Hồi hương!). Quân Pháp sợ nhất lúc chiến sĩ ta hát: Bao chiến sĩ anh hùng…Vì nhân dân quên mình…Viên sĩ quan Pháp đề nghị với anh Hậu: “Chỉ còn hai ngày nữa là Hà Nội thuộc về các ông. Xin các ông đừng hát”.

Hai ngày cùng canh gác chung với quân Pháp, Tiểu đoàn Bình Ca đã giữ nguyên vẹn 35 địa điểm an toàn. Hai ngày căng thẳng và có bộ phận bị đói, nhưng tiểu đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ “tiễn” quân Pháp đi, đón Đại đoàn vào tiếp quản Thủ đô. Cuộc sống bình thường của Hà Nội vẫn giữ vững: xe điện vẫn leng keng, nước vẫn chảy, điện vẫn sáng trong mỗi gia đình… Đó là chiến công của các cơ sở cách mạng trong lòng Hà Nội và của cả các chiến sĩ tiểu đoàn Bình Ca.

Đại quân tiến vào Hà Nội

Đúng 5 giờ sáng ngày 10-10-1954, lệnh giới nghiêm vừa hết. Cả thành phố náo nhiệt hẳn lên. Nhà nhà mở cửa đón chào ngày mới, ngày Giải phóng Thủ đô. Phố xá trang điểm thêm bằng cờ, biểu ngữ, trang trí thêm cổng chào. Người người mặc quần áo đẹp nhất, đường phố sạch sẽ tinh tươm đón đoàn quân chiến thắng trở về. 

 
 Nhân dân Hà Nội tặng hoa chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô. Người nhận hoa là đồng chí Bạch Ngọc Liễn

Khoảng 8 giờ sáng, các đơn vị trong Đại đoàn 308 quân phục chỉnh tề, huy hiệu “Chiến sĩ Điện Biên Phủ” cài trên ngực áo trở về trong lòng nhân dân Hà Nội, giữa một rừng cờ hoa trong sự đón mừng nồng nhiệt của đồng bào.

Anh hùng Nguyễn Quốc Trị, trung đoàn trưởng Trung đoàn Thủ đô và tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 54 Trần Đông dẫn đầu đội hình bộ binh tiến từ khu vực Mai Dịch, qua ô Cầu Giấy, Kim Mã, Hàng Đẫy, vườn hoa Cửa Nam, Hàng Bông, Hàng Gai ra Bờ Hồ, qua Hàng Đào, chợ Đồng Xuân, Hàng Đậu, cửa Bắc vào Thành Hà Nội.

Từ phía Nam, một đội hình bộ binh khác gồm Trung đoàn Tu Vũ và Đại đoàn bộ do trung đoàn trưởng Trung đoàn Tu Vũ chỉ huy từ Việt Nam học xá, lần lượt tiến qua Bạch Mai, phố Huế, ra Tràng Tiền rồi vòng về khu vực Đồn Thủy.

Tiến sau đội hình bộ binh là đội hình cơ giới. Hơn 100 xe Mô-lô-tô-va nước sơn màu lá mạ còn mới tinh khôi, cánh cửa in phù hiệu sao vàng trên nền đỏ, nối đuôi nhau tiến vào nội thành. Trên xe, các chiến sĩ ngồi ngay ngắn, súng dựng trên sàn, lưỡi lê tuốt trần sáng loáng.

Dẫn đầu đội hình cơ giới là một đoàn xe com-măng-ca mui trần. Trên xe đầu tiên, tướng Vương Thừa Vũ, Tư lệnh Đại đoàn 308, Chủ tịch Ủy ban Quân chính thành phố giơ tay chào đồng bào. Tiếp theo đó là xe của bác sĩ Trần Duy Hưng, Phó chủ tịch Ủy ban Quân chính, rồi đến xe của các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Đại đoàn: Chính ủy Song Hào, Đại đoàn phó Cao Văn Khánh.

Sau đoàn Mô-lô-tô-va chở bộ binh là đội hình pháo binh. Những khẩu đội pháo cao xạ nòng súng vươn thẳng trời cao với các chiến sĩ ngồi nghiêm trang trên mâm pháo.

Đoàn quân đi đến đâu là tiếng reo hò nổi lên như sóng dậy. Đường phố rực màu cờ, chật ních người. Những gương mặt rạng rỡ, nụ cười, ánh mắt, tay vẫy, những giọt lệ.

Lễ chào cờ lịch sử

Buổi chiều ngày 10-10-1954 là lễ chào cờ lịch sử. Lá cờ chiến thắng của Tổ quốc tung bay trên đỉnh Cột cờ. Trời thu Hà Nội xanh ngăn ngắt, điểm một sắc cờ đỏ thắm tựa bông hoa.

Trên sân vận động Cột cờ (nay thuộc Khu di tích Hoàng thành Thăng Long), các đơn vị tham dự lễ chào cờ đã tập hợp thành khối vuông nghiêm chỉnh. Hàng đầu là đội hình bộ binh gồm Trung đoàn Thủ đô, đại diện các đơn vị Đại đoàn 308 và Trung đoàn 57 Đại đoàn 304. Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 54 - Quyết tử quân Hà Nội mùa đông 1946 - được cử chỉ huy chỉnh đốn đội ngũ, báo cáo với Tham mưu trưởng Đại đoàn Vũ Yên. 
 
Lễ chào cờ lịch sử trên sân Cột Cờ chiều ngày 10-10-1954

Đứng sau đội hình bộ binh là đội hình cơ giới và pháo binh xếp hàng ngang thẳng tắp, xe pháo nghiêm chỉnh, pháo thủ và bộ binh cơ giới đứng nghiêm trên xe. Xung quanh sân vận động, nhân dân các khu phố đã kéo đến đông nghịt đứng vòng trong vòng ngoài chật ních cả đường Hoàng Diệu và đường Cột cờ (nay là đường Điện Biên Phủ). Ai ai cũng muốn có mặt trong lễ chào cờ lịch sử hôm nay.

Đúng 15 giờ, còi Nhà hát lớn nổi lên một hồi dài. Toàn thành phố hướng về Cột cờ thành Hoàng Diệu. 

Đứng chủ lễ chào cờ là Tướng Vương Thừa Vũ và bác sĩ Trần Duy Hưng. Đoàn quân nhạc do nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên chỉ huy cử Quốc thiều. Mọi người kính cẩn nhìn lên lá quốc kỳ đang tung bay trên đỉnh Cột cờ cao ngất. Tiếng nhạc vừa dứt, Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Chủ tịch Ủy ban Quân chính thành phố Hà Nội bước ra trước máy phóng thanh trân trọng đọc Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Thủ đô.

Mở đầu Lời kêu gọi, Bác viết: “Tám năm qua, Chính phủ phải xa rời khỏi Thủ đô để kháng chiến cứu nước. Tuy xa nhau nhưng lòng Chính phủ luôn luôn gần cạnh đồng bào.

Ngày nay, do nhân dân ta đoàn kết nhất trí, quân đội ta chiến đấu anh dũng, kháng chiến đã thắng lợi, Chính phủ lại trở về Thủ đô với đồng bào. Muôn dặm một nhà, lòng vui mừng khôn xiết kể (1). 

Bác hỏi thăm thân mật đồng bào rồi căn dặn: “… Sau cuộc biến đổi lớn, việc khôi phục lại đời sống bình thường sẽ phức tạp, khó khăn. Nhưng Chính phủ cố gắng quyết tâm, toàn thể đồng bào Hà Nội đồng tâm nhất trí góp sức với Chính phủ, thì nhất định chúng ta vượt được mọi khó khăn và đạt được mục đích chung làm cho Hà Nội thành một Thủ đô yên ổn, tươi vui và phồn thịnh (2)./.

----------------------------
Tài liệu tham khảo:

(1): Hồ Chí Minh, Tuyển tập, NXB Sự thật, Hà Nội, 1960, tr.503

(2): Hồ Chí Minh, Những sự kiện, Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, NXB Thông tin lý luận, 1987, tr.205-206.
Trung tướng Phạm Hồng Cư

Khoa Khoa học xã hội & Nhân văn

(0208).3848.976
Loading the player ...

Liên kết website

Thống kê website

Lượt truy câp: 1837307
Trong ngày:
Đang online: 8