Bàn thêm về nghệ thuật chỉ đạo kết thúc chiến tranh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1973 - 1975)
Bàn thêm về nghệ thuật chỉ đạo kết thúc chiến tranh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1973 - 1975)
Chủ động mở đầu và kết thúc chiến tranh là nét độc đáo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại, thể hiện bản lĩnh và trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Sau khi Hiệp định Pari được ký kết, nhân dân Việt Nam căn bản hoàn thành nhiệm vụ chiến lược “Đánh cho Mỹ cút”. So sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam thay đổi có lợi cho cách mạng. Nhưng Hoa Kỳ vẫn tiếp tục theo đuổi chính sách thực dân mới, nhằm duy trì chính quyền và quân đội Sài Gòn. Cuộc chiến tranh ở miền Nam chưa kết thúc.
Trên cơ sở nắm vững mục tiêu chiến lược cuối cùng là hoàn thành triệt để sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, bằng sự phân tích tỉnh táo và khoa học tình hình thực tế, Đảng sớm dự đoán hai khả năng, nỗ lực tranh thủ khả năng giành thắng lợi bằng phương pháp hòa bình, đồng thời chủ động sẵn sang đối phó với khả năng chiến tranh.
Tranh thủ khả năng hoà bình, Đảng kịp thời chỉ đạo cuộc đấu tranh thi hành Hiệp định Pari, duy trì cục diện “vừa đánh vừa đàm”, kiên quyết lên án và trừng trị những hành động phá hoại hiệp định của Hoa Kỳ và chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Đó là quá trình kết hợp đấu tranh trên ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao, tiếp tục làm thay đổi so sánh lực lượng trên chiến trường và tạo dư luận quốc tế có lợi cho cách mạng.
Khi tình hình chiến trường, tình hình quốc tế và nước Mỹ đã biến chuyển thuận lợi, tạo điều kiện cho nhân dân Việt Nam tiến lên giành thắng lợi cuối cùng, Bộ Chính trị kịp thời đánh giá thời cơ chiến lược và kiên quyết chớp thời cơ, xác định quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Thực hiện sự chỉ đạo sắc bén, linh hoạt và kiên quyết của Đảng, quân đội và nhân dân Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ cuộc đấu tranh trên ba mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao, tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, với ba đòn tiến công chiến lược: Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và Sài Gòn – Gia Định, quét sạch cơ đồ thực dân mới của đế quốc Mỹ, rửa sạch nỗi nhục mất nước, thu non sông về một mối, mở ra kỷ nguyên cả nước độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
1. Kiên định mục tiêu chiến lược hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đánh giá đúng tình hình, chủ động dự đoán khả năng kết thúc chiến tranh
Sau khi Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết (27-1-1973), Hoa Kỳ rút quân viễn chinh khỏi miền Nam, điều chỉnh chiến lược đối ngoại, tạm thời hoà hoãn vơí các lực lượng xã hội chủ nghĩa, tuyên truyền về một “kỷ nguyên hòa bình”, “kỷ nguyên thương lượng”. Dư luận nhiều nước cho rằng cuộc chiến tranh xâm lược của Hoa Kỳ ở Việt Nam kết thúc, chỉ còn cuộc “nội chiến” giữa những người Việt Nam với nhau. Ilya V. Gaiđuk, một một chuyên gia nghiên cứu về quan hệ Liên Xô – Hoa Kỳ của Viện Lịch sử Thế giới Mátxcơva, cho rằng: việc ký hiệp định Pari năm 1973 đã “chấm dứt sự dính líu trực tiếp của Hoa Kỳ vào cuộc chiến và mở ra một giai đoạn mới của cuộc xung đột là giai đoạn đối đầu giữa hai thế lực thù địch người Việt Nam mà không có sự can thiệp nước ngoài” (1).
Trên thực tế không phải như vậy. Hoa Kỳ tiếp tục theo đuổi chính sách thực dân mới ở miềnNam nhằm chia cắt nước Việt Nam. Họ duy trì một lực lượng hải quân và không quân ở Vịnh Bắc Bộ, Thái Lan và Guam, để lại ở miền Nam “những người lính không mặc quân phục” cùng các nhân viên dân sự; đổi tên Bộ chỉ huy quân sự Mỹ (MACV) thành cơ quan ngoại giao - tuỳ viên quốc phòng (DAO). Trước ngày ký Hiệp định Pari, Hoa Kỳ vội vã chuyển giao các căn cứ quân sự của họ ở miềnNam cho chính quyền Việt Nam Cộng hoà cùng với viện trợ khẩn cấp một lượng vật chất khổng lồ (2).
Dựa vào hậu thuẫn của Chính phủ Hoa Kỳ, Chính quyền Việt Nam Cộng hoà phá hoại Hiệp định Pari, nhất là các điều khoản về ngừng bắn, thực hiện các quyền tự do dân chủ và thả tù chính trị. Họ mở chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”, cho quân đội tiến công vùng giải phóng miền Nam, âm mưu xoá “thế da báo” (3); không chịu thả hết tù chính trị bằng cách chuyển thành tù thường phạm. Nguyễn Văn Thiệu thẳng tay loại bỏ những người không ăn cánh ra khỏi cơ cấu chính quyền, bóp nghẹt các quyền tự do dân chủ trong vùng chính quyền Việt Nam Cộng hoà kiểm soát. Đầu tháng 4-1973, Tổng thống Nichxơn gặp Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tại San Klimen, cam kết tiếp tục ủng hộ quân sự cho chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Ngay sau đó, Hoa Kỳ nối lại các chuyến bay do thám trên bầu trời miền Bắc Việt Nam, đình chỉ họp các hội nghị của Uỷ ban kinh tế hỗn hợp Hoa Kỳ - Việt Nam về việc giúp xây dựng lại miền Bắc. Tháng 7-1974, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua mức viện trợ kinh tế tài khoá 1974-1975 cho chính quyền Việt Nam Cộng hoà 700 triệu đôla về kinh tế, 400 triệu đô la về quân sự.
Theo Hiệp định Pari, Chính quyền Việt Nam Cộng hoà không có cơ sở pháp lý để tồn tại như một chính quyền và lực lượng chính trị duy nhất ở miền Nam, nhưng họ lại muốn “được tồn tại như một quốc gia độc lập”. Nguyễn Văn Thiệu ngang nhiên tuyên bố bắt đầu “cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba”. Cuối năm 1973, “ông ta tăng cường các trận đánh trên không và trên bộ vào các căn cứ đối phương, đồng thời mở hàng loạt chiến dịch chiếm lãnh thổ trên vùng đất mà Chính phủ Cách mạng lâm thời chiếm giữ dọc bờ biển phía Đông, trong vùng tam giác sắt và ở vùng đồng bằng sông Cửu Long”. Tổng thống Nicxơn “vẫn kiên trì ủng hộ Thiệu”, bí mật hứa hẹn tiếp tục “viện trợ quân sự và kinh tế đầy đủ” và “phản ứng với toàn bộ sức mạnh nếu Bắc Việt Nam vi phạm hiệp định”. Tổng thống Nicxơn còn tuyên bố, Mỹ “sẽ tiếp tục công nhận Chính phủ Việt Nam cộng hòa là Chính phủ hợp pháp duy nhất của Nam Việt Nam” (4).
Mặc dù gặp mâu thuẫn giữa lợi ích chiến lược trên thế giới và lợi ích cục bộ ở miền Nam ViệtNam, Hoa Kỳ vẫn theo đuổi chính sách thực dân mới ở miền Nam, nhưng không muốn bị sa lầy và tổn thất. Những động thái trên đây cho thấy tính chất cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam vẫn là giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân mới, mà trực tiếp là đánh vào công cụ của nó là chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hoà.
Phần lớn các nước xã hội chủ nghĩa tiếp tục ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam khôi phục kinh tế miền Bắc, đấu tranh chống Hoa Kỳ và chính quyền Việt Nam Cộng hoà vi phạm hiệp định, thực hiện hòa bình và hoà hợp dân tộc, thống nhất nước Việt Nam, tuy nhiên cũng có nước muốn duy trì nguyên trạng Đông Dương. Viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa không đầy đủ và kịp thời như Việt Nam mong muốn (5) Liên Xô và Trung Quốc đều cắt giảm viện trợ quân sự.
Một ngày sau khi Hiệp định Pari được ký tắt (23-1-1973), Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra chỉ thị số 200 (24-1-1973), vạch rõ “cuộc cách mạng ở miền Nam có nhiều thuận lợi mới, nhưng còn gay go phức tạp, có khả năng tiến triển trong điều kiện hòa bình được giữ vững, nhưng phải sẵn sàng đối phó với khả năng địch ngoan cố phá hoại hòa bình" (6).
Tháng 6-1973, Bộ Chính trị nhận định: “Âm mưu cơ bản và lâu dài của đế quốc Mỹ và tay sai là tìm mọi cách xoá bỏ sự tồn tại của chính quyền và quân đội cách mạng để chúng độc chiếm miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành một nước riêng với một chế độ chính trị “quốc gia” thân Mỹ, một nền kinh tế và văn hóa chịu sự chi phối của Mỹ. Đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục duy trì một sự cam kết nhất định về quân sự và tiếp tục giúp đỡ ngụy quyền Sài Gòn để cho bọn tay sai đủ sức đứng vững và đối phó với miền Bắc, đồng thời đảm bảo cho Mỹ bám trụ lâu dài ở miền Nam, mà tránh được nguy cơ phải dính líu trực tiếp vào một cuộc chiến tranh mới ở miền Nam” (7).
Do chính sách can thiệp của Hoa Kỳ và sự ngoan cố của chính quyền Việt Nam Cộng hoà, mặc dù quy mô và cường độ chiến tranh có giảm bớt, nhưng hòa bình vẫn chưa được lập lại ở miềnNam. Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, còn diễn ra quyết liệt, mà trực tiếp là đánh vào công cụ của chủ nghĩa thực dân mới là bộ máy chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hoà. Bộ Chính trị chỉ rõ, đó là “cuộc đấu tranh một mất một còn để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa hòa bình với chiến tranh, giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa thực dân mới, giữa dân chủ tự do và độc tài phát xít, giữa hoà hợp dân tộc và thống nhất nước nhà với chia rẽ dân tộc và chia cắt đất nước” (8).
Bộ Chính trị xác định nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là “tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”. Khẩu hiệu trung tâm của giai đoạn mới là “hoà bình, độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hoà hợp dân tộc tiến tới hoà bình thống nhất nước nhà”.
Trên cơ sở phân tích tình hình thi hành Hiệp định Pari, Bộ Chính trị dự đoán hai khả năng:
Một là, Hiệp định Pari được thi hành từng bước, xung đột quân sự giảm dần, hòa bình được lập lại về cơ bản; đấu tranh chính trị ngày càng phát triển, cách mạng ở thế tiến lên mạnh mẽ.
Hai là, địch gây chiến tranh trở lại; ta phải tiến hành chiến tranh cách mạng để giành thắng lợi”.
Bộ Chính trị chỉ rõ, phải nắm vững tình hình, nắm vững thời cơ, chỉ đạo kiên quyết, khôn khéo và linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên. Trong mỗi khả năng phát triển của tình hình, sẽ còn có nhiều tình huống phức tạp. Song dù tình hình phát triển theo khả năng nào, con đường tiến lên giành thắng lợi của cách mạng miền Nam chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực diễn ra dưới hình thức này hay hình thức khác.
Phải chuẩn bị sẵn sàng đối phó chắc thắng với khả năng xấu nhất là địch gây lại chiến tranh. “Nhưng phương hướng chủ động, tích cực và đúng đắn hiện nay có lợi nhất cho sự nghiệp cách mạng của ta là kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao trên cơ sở hành động cách mạng đông đảo quần chúng trong vùng địch kiểm soát, buộc địch thi hành hiệp định, buộc địch đi vào hoà bình để thắng địch”.
Bộ Chính trị xác định quá trình tiến lên hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân “là một quá trình đấu tranh lâu dài, rất gay go và phức tạp, phải kéo địch xuống và thắng địch từng bước để tiến tới thắng lợi hoàn toàn. Muốn bảo đảm đi đến thắng lợi, cách mạng miền Nam phải nắm vững chiến lược tiến công…" (9).
Như vậy, trên cơ sở quán triệt mục tiêu hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, Đảng căn cứ vào tình hình thực tế, dự đoán hai khả năng, trước mắt tranh thủ khả năng giàng thắng lợi bằng phương pháp hoà bình, nhưng không tuyệt đối hoá khả năng này, mà vẫn chủ động chuẩn bị, sẵn sàng đối phó với khả năng chiến tranh nếu Hiệp định Pari không được Hoa Kỳ và chính quyền Việt Nam Cộng hoà tôn trọng.
2. Tranh thủ khả năng giành thắng lợi bằng phương pháp hoà bình, chỉ đạo cuộc đấu tranh thi hành Hiệp định Pari, làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng
Ngày 23-1-1973, Hiệp định Pari được ký tắt giữa Lê Đức Thọ và H. Kisinge. Ngày 24-1-1973, Ban Bí thư Trung ương Đảng xác định: “Đấu tranh thi hành Hiệp định và công tác quốc tế trở thành những công tác quan trọng và cấp bách của Đảng và Nhà nước" (10).
Ngày 28-1-1973, Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra Lời kêu gọi, long trọng tuyên bố sẽ thi hành nghiêm chỉnh và triệt để mọi điều khoản của Hiệp định Pari, và đòi hỏi các bên tham gia ký kết tôn trọng và thực hiện đầy đủ.
Sau khi Hội nghị quốc tế ký Định ước xác nhận và bảo đảm Hiệp định Pari về Việt Nam (3-1973), Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam nhanh chóng cử các đoàn đại biểu tham gia các Ban Liên hợp Quân sự hai bên và bốn bên.
Ban Chỉ đạo đấu tranh thi hành Hiệp định Pari được thành lập do Lê Đức Thọ làm Trưởng ban, với nhiệm vụ theo dõi tình hình thi hành Hiệp định về các mặt quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế; đôn đốc, hướng dẫn các ngành và các cơ quan hữu quan trong việc đấu tranh thi hành Hiệp định; trực tiếp phụ trách việc đấu tranh thi hành các điều khoản về chính trị nội bộ miền Nam, bao gồm cả việc đấu tranh tại Hội nghị hiệp thương hai bên miền Nam ở La Xen Xanh Clu (La Celle Saint Cloud).
Đấu tranh thi hành Hiệp định Pari không phải chỉ là đòi thực hiện các điều khoản của Hiệp định, mặc dù đó cũng là một bộ phận quan trọng của đấu tranh cách mạng, mà vấn đề có ý nghĩa quyết định là làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng. Bộ Chính trị chỉ rõ: “Đây là khả năng giành thắng lợi không phải thông qua con đường chiến tranh cách mạng mà chủ yếu bằng phong trào đấu tranh cách mạng, bằng hành động cách mạng bạo lực của quần chúng, nhưng cũng phải trên cơ sở giữ vững và củng cố được thế quân sự của ta ngày càng mạnh, biết dùng sức mạnh quân sự của ta và tiến công binh vận để đánh bại sự phản kích của địch, kết hợp chính trị với quân sự và ngoại giao để dằn địch lại không để cho chúng mở rộng xung đột quân sự để gây lại chiến tranh” (11).
Giương cao ngọn cờ hòa bình, thi hành Hiệp định, ngày 10-2-1973, Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Bộ Ngoại giao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khẳng định lập trường của nhân dân Việt Nam là nghiêm chỉnh và triệt để thi hành Hiệp định và các nghị định thư, kiên quyết giữ vững hòa bình, đồng thời kiên quyết không tha thứ cho những hành động của chính quyền Việt Nam Cộng hoà cũng như Hoa Kỳ vi phạm Hiệp định; đòi Mỹ phải hoàn toàn chấm dứt dính líu vào công việc nội bộ của Việt Nam, không được viện trợ quân sự cho chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Đó cũng là nội dung đấu tranh bao trùm trên mặt trận dư luận quốc tế, phát huy thế mạnh cả về chính trị và pháp lý của nhân dân Việt Nam; góp phần ngăn chặn khả năng Mỹ liều lĩnh trở lại bằng quân sự.
Trong cục diện “vừa đánh vừa đàm”, Đảng chỉ đạo đấu tranh trên mọi diễn đàn trong nước và quốc tế, ở các Ban liên hợp Quân sự hai bên, bốn bên tại Tân Sơn Nhất và Hội nghị hiệp thương hai bên miền Nam ở Pari.
Ngày 16-4-1973, Bộ Ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi Công hàm tới Bộ Ngoại giao các nước ký Định ước Pari về Việt Nam và Tổng Thư ký Liên hợp quốc Cuốcvanhem nêu ba vấn đề cấp bách là: ngừng bắn, thực hiện các quyền tự do dân chủ và thả tù chính trị ở miền Nam. Đó là những nội dung cơ bản của Hiệp định Pari, nhưng Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn thường xuyên công khai vi phạm, tạo điều kiện cho đấu tranh quân sự trừng trị những hành động phá hoại Hiệp định.
Nghị quyết số 236 của Bộ Chính trị vạch rõ “phải đánh đổ Nguyễn Văn Thiệu thì mới có hòa bình và hoà giải dân tộc”. “Cần hình thành một mặt trận rộng rãi chống Thiệu, thành lập một chính quyền tán thành thật sự việc thi hành Hiệp định Pari, ban hành các quyền tự do dân chủ trong vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát, trả lại tự do cho các tù chính trị, thực hiện hòa bình và hoà hợp dân tộc” (12).
Các phương tiện thông tin đại chúng tập trung mũi nhọn vào Nguyễn Văn Thiệu, làm rõ yêu cầu: phải đánh đổ Nguyễn Văn Thiệu, thành lập ở Sài Gòn một chính quyền tán thành thi hành Hiệp định Pari, thực hiện các quyền tự do dân chủ trong vùng họ kiểm soát, trả lại tự do cho các tù chính trị.
Trước tình hình quân đội Việt Nam Cộng hoà liên tiếp phá hoại việc ngừng bắn, ngày 28-6-1973, Quân uỷ Trung ương xác định nhiệm vụ trước mắt của các lực lượng vũ trang nhân dân miền Nam là nắm vững chiến lược tiến công, làm thất bại mọi hành động lấn chiếm của quân đội Sài Gòn, giữ vững vùng giải phóng và chính quyền cách mạng; đồng thời chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt, kiên quyết tiêu diệt lực lượng đối phương mở rộng chiến tranh quy mô lớn.
Tháng 10-1973, Hội nghị 21 Ban chấp hành Trung ương Đảng họp đợt hai, tiếp tục khẳng định con đường bạo lực cách mạng; chủ trương đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao; tận dụng các diễn đàn đấu tranh ngoại giao buộc đối phương phải thi hành Hiệp định Pari; đồng thời chủ động chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp phải tiến hành chiến tranh cách mạng trên khắp chiến trường miền Nam để giành thắng lợi hoàn toàn. Ban chấp hành Trung ương Đảng chủ trương: “Nắm vững pháp lý của Hiệp định Pari về Việt Nam, giương cao ngọn cờ hoà bình và lập trường chính nghĩa của ta, kiên quyết và kịp thời vạch trần trước dư luận trong nước và dư luận thế giới mọi âm mưu và hành động của địch vi phạm Hiệp định. Ra sức tranh thủ lực lượng Việt kiều ở nước ngoài tán thành và ủng hộ giải pháp của ta; tranh thủ dư luận quốc tế đồng tình, ủng hộ ta, lên án và gây sức ép đối với Mỹ và chính quyền Sài Gòn, ngăn chặn những âm mưu và hành động ngang ngược của chúng” (13).
Ngày 15-10-1973, Bộ Chỉ huy các lực lượng vũ trang Giải phóng miền Nam ra lệnh: Kiên quyết giáng trả các hành động chiến tranh của chính quyền Sài Gòn, bất cứ ở đâu bằng các hình thức và lực lượng thích hợp.
Chấp hành mệnh lệnh trên, các lực lượng vũ trang giải phóng kiên quyết phản công và tiến công, làm cho quân đội Sài Gòn hao hụt về số lượng, sa sút về tinh thần, lâm vào thế phòng ngự bị động. Trong khi đó, lực lượng cách mạng giữ vững quyền chủ động trên khắp các chiến trường, củng cố và hoàn chỉnh thế chiến lược liên hoàn từ Bắc vào Nam, tăng cường các binh đoàn chủ lực cơ động và bố trí hợp lý trên các chiến trường; cải thiện tình hình nông thôn đồng bằng, phát động phong trào đấu tranh chính trị rộng lớn, đồng thời tranh thủ sự đồng tình ủng hộ quốc tế.
Tháng 1-1974, Bộ Ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố cuốn Sách Trắng “Một năm thi hành Hiệp định Pari”, tố cáo Hoa Kỳ và chính quyền Việt Nam Cộng hoà phá hoại có hệ thống Hiệp định, nêu cao thiện chí và quyết tâm của nhân dân Việt Nam, làm rõ trước dư luận thế giới tình hình thực tế ở Việt Nam sau Hiệp định Pari do chính sách can thiệp của Hoa Kỳ và âm mưu kéo dài chiến tranh của chính quyền Việt Nam Cộng hoà.
Đảng chỉ đạo phối hợp với cuộc đấu tranh của nhân dân Lào và Campuchia, ủng hộ Lào ký hiệp định và nghị định thư có lợi cho cách mạng Lào, tích cực chi viện Campuchia đấu tranh vũ trang chống Mỹ và chính quyền thân Mỹ ở Phnômpênh.
Cuộc đấu tranh thi hành Hiệp định Pari đã nêu cao tính chất chính nghĩa và thiện chí hoà bình của nhân dân Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và đoàn kết quốc tế. Từ tháng 1-1973 đến tháng 4-1975, có thêm 27 nước công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về mặt ngoại giao. Các nước xã hội chủ nghĩa bày tỏ sẵn sàng giúp đỡ xây dựng lại miền Bắc Việt Nam. Nhiều nước xoá nợ cho Việt Nam và coi viện trợ của họ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam là viện trợ không hoàn lại. Hội nghị ngoại trưởng các nước Phong trào Không liên kết lên tiếng đòi Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải ngừng những hành động chiến tranh, thi hành thoả thuận ngừng bắn. Hội nghị quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam họp tại Xtốckhôm năm 1974 đòi Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải nghiêm chỉnh thực hiện các điều khoản của Hiệp định Pari. Dư luận quốc tế luôn cảnh giác với Mỹ. Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam đấu tranh thi hành Hiệp định Pari ngày càng phát triển. Cả thế giới đều thấy rõ Mỹ và chính quyền Sài Gòn là kẻ phá hoại Hiệp định Pari, là sức cản trở chủ yếu cho việc thực hiện hòa bình và hoà hợp dân tộc ở Việt Nam.
Quá trình đấu tranh thi hành Hiệp định Pari làm cho tình hình chiến trường miền Nam, tình hình quốc tế biến chuyển theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng Việt Nam, tạo điều kiện cho nhân dân Việt Nam tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
3. Đánh giá đúng thời cơ, kết thúc cục diện “vừa đánh vừa đàm”, xác định kế hoạch và chỉ đạo cuộc tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn miền Nam
Đối với cách mạng Việt Nam, điều quan trọng của Hiệp định Pari là quân đội Hoa Kỳ phải rút, còn lực lượng cách mạng tiếp tục ở lại miền Nam, giữ nguyên thế và lực của cách mạng ở miền Nam để tiến lên hoàn thành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Bộ Chính trị Trung ương Đảng khẳng định: “Quyết tâm của chúng ta là tiến lên giành thắng lợi cuối cùng chứ không bao giờ dừng lại" (14). Ngày 13-8-1974, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 236, nhấn mạnh yêu cầu đấu tranh trước mắt cần cô lập và đánh đổ Nguyễn Văn Thiệu, đồng thời chuẩn bị tiến lên giành thắng lợi lớn hơn khi có thời co. Bộ Chính trị chỉ rõ: “Cần hình thành một mặt trận rộng rãi chống Thiệu, đòi đánh đổ Thiệu, thành lập một chính quyền tán thành thật sự việc thi hành Hiệp định Pari, ban hành các quyền tự do dân chủ trong vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát, trả lại tự do cho các tù chính trị, thực hiện hoà bình và hoà hợp dân tộc” Mặt khác, Bộ Chính trị cũng chỉ rõ: “khi thời cơ thuận lợi, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam có thể mở một cuộc tiến công về ngoại giao, đẩy Mỹ - nguỵ vào chân tường, tranh thủ sự đồng tình của dư luận rộng rãi trong nước và ngoài nước" (15).
Sau 18 tháng đấu tranh thi hành Hiệp định Pari, bản chất của chính quyền Việt Nam Cộng hoà với nhãn hiệu “quốc gia” ngày càng lộ rõ. Khả năng thi hành Hiệp định Pari không còn nữa. Phải xoá bỏ công cụ của chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam là tất yếu. Đã đến lúc phải chấm dứt cục diện “vừa đánh, vừa đàm”.
Ngày 22-6-1974, xét thấy không thể giải quyết được vấn đề gì tại bàn hội nghị, Đoàn dại biểu Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tuyên bố đình chỉ không thời hạn việc tham dự các phiên họp của các Ban Liên hợp Quân sự hai bên và bốn bên. Ngày 23-6-1974, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố ủng hộ quyết định đúng đắn của Cộng hoà miền Nam Việt Nam và cũng đình chỉ tham dự các phiên họp của hai cơ quan liên hợp quân sự này. Các trưởng đoàn và một bộ phận nhân viên của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Cộng hoà miền Nam Việt nam trong các Ban Liên hợp Quân sự rời Tân Sơn Nhất. Bộ phận còn lại tiếp tục làm nhiệm vụ đấu tranh trên trận dịa dư luận.
Ngày 9-8-1974, Tổng thống Nicxơn phải từ chức khi chưa hết nhiệm kỳ do cuộc “khủng hoảng lòng tin” đang tràn ngập nước Mỹ, trực tiếp là do vụ bê bối Oatơghết được đưa ra ánh sáng, làm cho tình hình nội bộ nước Mỹ rối loạn. “Đó là một đòn đánh mạnh vào chính trị và tinh thần” của chế độ Việt Nam Cộng hoà, làm cho Nguyễn Văn Thiệu “hoang mang, dao động trước sự thất thế của Níchxơn” (16).
Tại diễn đàn hai bên Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mỹ ở Pari, ngày 25-8-1974, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gửi cho Mỹ một bức thông điệp cuối cùng phê phán Mỹ không có thiện chí, gây trở ngại và có ý đồ phá hoại Hiệp định Pari. Từ đó, đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không dự họp nữa. Đàm phán tại diễn đàn này cũng chấm dứt.
Tại diễn đàn hai bên miền Nam Việt Nam ở Pari, sau một thời gian đấu tranh gay gắt, từ tháng 8-1974 bị ngừng trệ, đến đầu năm 1975, Đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đơn phương cắt hẳn việc tham gia diễn đàn này.
Ngày 30-9-1974, Bộ Chính trị họp Hội nghị bàn nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước trong hai năm 1975-1976. Đợt một họp đến ngày 8-10-1974. Bộ Chính trị tập trung phân tích tình hình quốc tế, đánh giá thời cơ chiến lược để giải phóng hoàn toàn miền Nam. Mỹ đã thất bại trong âm mưu độc chiếm Đông Nam Á, phải xoay sang bắt tay, thoả hiệp để chia quyền lợi và vùng ảnh hưởng với đối thủ của mình, tìm cách chặn bước tiến của cách mạng Việt Nam, kéo dài tình trạng chia cắt nước Việt Nam. Ở thời điểm này, Việt Nam không chỉ là vấn đề đối đầu giữa hai hệ thống thế giới, mà về khách quan còn là đối thủ quan trọng phải khuất phục trong sự tính toán chiến lược của những thế lực khác nhau muốn tranh giành Đông Nam Á. “Âm mưu của họ rất nguy hiểm, nhưng lúc này chưa ai sẵn sàng, chưa ai làm nổi”. Mỹ đang rút ra, trước mắt muốn giữ tình hình miền Nam ổn định trong một số năm để ngụy có thể tiếp tục đứng vững và Mỹ có thời gian vượt qua những khó khăn trong nước. So sánh lực lượng trên chiến trường đang có lợi cho ta. Ta đang ở thế thắng, thế tiến lên. Địch bị thất bại liên tiếp cả về chính trị và quân sự, nên thế và lực đang xuống dốc.
Để xác định quyết tâm chiến lược, Bộ Chính trị thận trọng cân nhắc vấn đề Mỹ có mang quân trở lại miền Nam hay không (?). Bản chất của Mỹ rất ngoan cố, nhưng sau những chuỗi dài thất bại, ý chí xâm lược rã rời, đây là lúc Mỹ đang phải rút ra khỏi Việt Nam, mà đã ra thì việc quay lại không phải dễ. Ngoan cố bám giữ miền Nam đến cùng là một việc, mà quay trở lại miền Nam một lần nữa là một việc khác.
Bộ Chính trị kết luận: “Mỹ không có khả năng quay lại miền Nam”, đồng thời khẳng định “dù Mỹ có can thiệp trở lại trong chừng mực nào thì chúng cũng không xoay chuyển được tình thế, và ta vẫn thắng”.
Trên cơ sở phân tích toàn diện, Bộ Chính trị chỉ rõ quân và dân Việt Nam đang có thời cơ, đây là thời cơ thuận lợi nhất để hoàn toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân tộc dân chủ, đồng thời giúp Lào và Campuchia hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bộ Chính trị nhấn mạnh: Ngoài thời cơ này không có thời cơ nào khác.
Với tinh thần kiên quyết chớp thời cơ, Bộ Chính trị xác định quyết tâm động viên những nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân đội Việt Nam Cộng hoà, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt trung tâm của đối phương cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ chính quyền Việt Nam Cộng hoà ở Trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất đất nước" (17). Bộ Chính trị chỉ rõ: ngay từ thời điểm này phải tiến hành mọi công việc chuẩn bị thật khẩn trương, tạo điều kiện và cơ sở vật chất đầy đủ nhất để đánh mạnh, đánh nhanh, thắng gọn và thắng triệt để trong hai năm 1975-1976.
Trong cuốn “Cuộc chiến tranh thực sự”, cựu Tổng thống R. Níchxơn thừa nhận: Vào mùa Xuân năm 1975, đối phương đã nhạy bén chớp thời cơ, đẩy tới cuộc tiến công chiến lược, giành thắng lợi cuối cùng. Nói theo cách nói của Bắc Việt, họ đã vận dụng thành công nghệ thuật chỉ đạo chiến lược giai đoạn cuối chiến tranh, với quyết tâm giành thắng lợi trọn vẹn, kết thúc giai đoạn lịch sử đánh cho nguỵ nhào (18).
Để tiến lên dùng chiến tranh cách mạng xoá bỏ công cụ thực dân mới của đế quốc Mỹ, ba vấn đề cấp bách cũ (ngừng bắn, thực hiện các quyền tự do dân chủ và thả tù chính trị) không còn thích hợp nữa, cần phải rút bỏ. Ngày 8-10-1974, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ra tuyên bố về tình hình miền Nam Việt Nam và nêu hai vấn đề cấp bách mới:
1. Chính phủ Hoa Kỳ chấm dứt hoàn toàn và triệt để mọi dính líu quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.
2. Đánh đổ Nguyễn Văn Thiệu và phe cánh, trở ngại chính cho việc giải quyết các vấn đề chính trị ở miền Nam Việt Nam, thành lập ở Sài Gòn một chính quyền tán thành hòa bình, hoà hợp dân tộc, nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam.
Mũi nhọn của cuộc đấu tranh không chỉ nhằm vào cá nhân Nguyễn văn Thiệu như trước, mà nhằm vào toàn bộ tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu. Bản Tuyên bố trên đánh dấu một bước tiến mới trong cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam . Đó là một đòn tiến công ngoại giao sắc bén, ngăn chặn khả năng Mỹ thay Nguyễn Văn Thiệu và yêu cầu ngừng bắn để tháo gỡ tình thế.
Từ ngày 8-12-1974 đến ngày 7-1-1975, Bộ Chính trị họp đợt hai, tiếp tục bổ sung và hoàn chỉnh quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam. Cuộc họp sắp kết thúc thì các lực lượng vũ trang cách mạng giải phóng thị xã Phước Long và toàn tỉnh Phước Long (6-1-1975), nhưng Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hoà không có phản ứng gì (19). Trận trinh sát chiến lược Phước Long cho thấy khả năng đối phó rất hạn chế của Mỹ và sự suy yếu của quân đội Việt Nam Cộng hoà. Bộ Chính trị đi sâu phân tích so sánh lực lượng trên chiến trường, khẳng định “thế của địch ngày càng xấu, lực của địch ngày càng suy”, và quyết định “phải gấp rút chuẩn bị mọi mặt để kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh cứu nước trong năm 1975 hoặc năm 1976”, và nêu rõ “phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975. Điều đó là một khả năng hiện thực”. Để đảm bảo thắng lợi, phải làm hết sức mình để tăng cường lực lượng, đảm bảo đầy đủ về nhu cầu vật chất, kỹ thuật cho chiến trường; làm thật tốt công tác chính trị, tư tưởng trong quân đội, trong nhân dân, động viên toàn quân, toàn dân nêu cao ý chí “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”; sử dụng khôn khéo vũ khí đấu tranh ngoại giao, góp phần giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập, hoà hợp dân tộc nhằm cô lập những thế lực phản động, ngoan cố; làm sáng tỏ chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới; ngăn chặn âm mưu và thủ đoạn can thiệp, phá hoại của đế quốc Mỹ và phản động quốc tế.
Bộ Chính trị chỉ rõ: “Trận quyết chiến chiến lược này là một sự nghiệp trọng đại. Nó sẽ đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn, góp phần làm thay đổi cục diện ở Đông Dương, Đông Nam Á, mở ra bước phát triển mới trong phong trào cách mạng của nhân dân thế giới. Đảng ta quyết làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang đối với dân tộc và nghĩa vụ quốc tế cao cả... Chúng ta nhất định thắng" (20).
Mùa Xuân năm 1975, theo sự chỉ đạo chặt chẽ của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam tập trung thực hiện quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam, mở đầu bằng đòn tiến công chiến lược trên chiến trường Tây Nguyên. Quân đội Việt Nam Cộng hoà tháo chạy hoảng loạn. Hoa Kỳ hoàn toàn bó tay. Sau này, R. Níchxơn viết: “Ngày 11-3 (1975) chính vào ngày Buôn Ma Thuột thất thủ, Hạ nghị viên Hoa Kỳ từ chối không chịu cấp một ngân khoản viện trợ quân sự bổ sung 300 triệu đôla mà Tổng thống Pho đã đề nghị. Cùng với những hạn chế về ngân khoản trước, quyết định này làm lung lay tinh thần của Nam Việt Nam và cũng làm cho họ không còn phương tiện để tự vệ. Họ thiếu hụt dụng cụ quân sự một cách trầm trọng và phải phụ thuộc vào Hoa Kỳ về mặt đó. Trái lại những biện pháp này gây tâm lý phấn khởi lớn lao cho miền Bắc. Hà Nội đưa tất cả quân đội còn lại của họ vào trận…” (21).
Trong khi chiến dịch Tây Nguyên đang tiếp diễn, Bộ Chính trị nhận định cuộc tiến công chiến lược trên chiến trường Tây Nguyên đã phát triển thành tổng tiến công chiến lược. Chưa bao giờ quân đội và nhân dân Việt Nam có đầy đủ điều kiện và thời cơ to lớn như lúc này. Thời cơ chiến lược đã chín muồi. Đó là lúc thế và lực của cách mạng đã được chuẩn bị đầy đủ để đánh đòn quyết định cuối cùng; là lúc chính quyền của Tổng thống G. Pho bị Quốc hội Mỹ khước từ mọi yêu cầu viện trợ cho Việt Nam Cộng hoà, ngăn cấm mọi dính líu quân sự vào miền Nam Việt Nam; là lúc bộ máy điều hành chiến tranh của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lâm vào cảnh hỗn loạn về chính trị, bế tắc về quân sự và liên tiếp phạm những sai lầm về chỉ đạo chiến lược. Ngày 18-3-1975, theo đề nghị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ Chính trị quyết định hoàn thành kế hoạch 2 năm giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Bộ Chính trị chỉ đạo hai đòn tiến công chiến lược trên các chiến trường Huế - Đà Nẵng và Sài Gòn - Gia Định. Phương châm thần tốc, táo bạo, bất ngờ không chỉ có ý nghĩa về mặt quân sự nhằm tranh thủ thời cơ thuận lợi, mà về mặt đối ngoại, việc thực hiện phương châm này có tác dụng ngăn chặn triệt để khả năng can thiệp bằng mọi biện pháp từ bên ngoài trong bối cảnh quốc tế phức tạp lúc bấy giờ.
Ngày 21-4-1975, khi các binh đoàn chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam đã tập trung tới mức áp đảo, hình thành thế bao vây và ngày càng xiết chặt quanh Sài Gòn, Mỹ ép Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đưa Trần Văn Hương lên thay, đề nghị ngừng bắn và thương lượng. Ngày 22-4-1975, Tổng thống Pháp kêu gọi các bên ở Việt Nam ngừng bắn, mở rộng các cuộc thương thuyết để chấm dứt chiến tranh.
Ngày 26-4-1975, Chính phủ cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ra tuyên bố, vạch rõ âm mưu của Mỹ muốn duy trì một chính quyền Nguyễn Văn Thiệu không có Thiệu, đòi phảixoá bỏ chính quyền Việt Nam Cộng hoà, công cụ của chủ nghĩa thực dân mới, xoá bỏ bộ máy chiến tranh, bộ máy kìm kẹp và đàn áp nhân dân ở miền Nam. (Như vây, yêu cầu đấu tranh được nâng lên mức cao hơn, không phải chỉ xoá bỏ tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu như trước, mà là xoá bỏ toàn bộ chính quyền Việt Nam Cộng hoà). Bản tuyên bố kêu gọi nhân dân và chính phủ các nước yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới, kể cả nhân dân Hoa Kỳ, hãy ủng hộ mạnh mẽ hơn nữa sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân miền Nam Việt Nam. Cùng ngày, các binh đoàn chủ lực của Việt Nam bắt đầu vượt qua các tuyến phòng thủ vòng ngoài để tiến vào nội đô Sài Gòn, chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hoà lâm vào nguy kịch.
Tối ngày 27-4-1975, Dương Văn Minh được đưa ra thay cho Trần Văn Hương với yêu cầu hòa bình thương lượng. Nhưng đã quá muộn. Mọi nỗ lực cứu vãn chế độ chính trị Sài Gòn đều không có khả năng và không còn thích hợp nữa. Quân đội và nhân dân Việt Nam kiên quyết “đánh cho ngụy nhào”, tiêu diệt những hy vọng cuối cùng của những thế lực muốn giữ chính quyền Việt Nam Cộng hoà để vớt vát quyền lợi
Trong tình thế tuyệt vọng, 10 giờ 15 phút ngày 30-4-1975, Dương Văn Minh thông báo cho quân đội Sài Gòn ngừng bắn và đồng thời cũng muốn phía cách mạng làm như vậy để chuyển giao chính quyền có trật tự. Theo nhà sử học Mỹ Gabriel Kolko thì đó là “một cuộc đầu hàng, nhưng chắc chắn không phải là đầu hàng không có điều kiện” (22). Thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, các lực lượng vũ trang cách mạng tiếp tục tiến quân theo kế hoạch “với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng" (23).
Tuy nhiên, khi các binh đoàn chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam đã khoá chặt mọi cửa ngõ ra vào Sài Gòn, trong hai ngày 28 và 29-4-1975, bầu trời Sài Gòn được bỏ ngỏ để Mỹ có thể dùng máy bay trực thăng chở nốt những người “di tản” và những người Mỹ còn sót lại ở Sài Gòn mà không bị tiến công.
Thực hiện sự chỉ đạo chiến lược sắc bén, linh hoạt và kiên quyết của Đảng, quân đội và nhân dân Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ cuộc đấu tranh trên ba mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao; từng bước phân hoá, cô lập kẻ thù, kết hợp với tổng tiến công và nổi dậy, làm tan ra quân đội và chính quyền Việt Nam Cộng hoà, quét sạch cơ đồ thực dân mới của đế quốc Mỹ, rửa sạch nỗi nhục mất nước, thu non sông về một mối, mở ra kỷ nguyên cả nước độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
(*) Khoa Lịch sử, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN.
(1). Ilya V. Gaiduk. Liên bang xô viết và chiến tranh Việt Nam, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội, 1998, tr. 15.
(2). Viện trợ Mỹ cho chính quyền Sài Gòn lúc đó trị giá khoảng 750 triệu đôla, bao gồm 700 máy bay, 400 xe tăng, 2 triệu tấn vật tư kỹ thuật. Từ sau ngày ký Hiệp định đến cuối năm 1973, Mỹ đưa vào miền Nam 90 máy bay, 100 khẩu pháo và nhiều phương tiện chiến tranh khác.
(3).Từ tháng 2-1973 đến giữa năm 1974 quân đội Việt Nam Cộng hoà tổ chức 34 266 cuộc tiến công quy mô lớn nhằm lấn chiếm vùng giải phóng và 216 000 cuộc hành quân bình định trong vùng họ kiểm soát.
(4) George C. Herring: Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 331 và 333.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam :Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 35, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nộ, 2004, tr. 176.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 34, Sđd, tr. 5 và 8.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 34, Sđd, tr. 147.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 34, Sđd, tr. 177.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 34, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 147-182.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 34, Sđd, tr. 5 và 8.
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 34, Sđd, tr. 183.
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 35, Sđd, tr. 122.
(13) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t. 34, Sđd, tr. 243 và 256.
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 35, Sđd, tr. 177.
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 35, Sđd, tr. 122
(16) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 35, Sđd, tr. 130.
(17) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 35, Sđd, tr. 185.
(18) Dẫn theo Trần Trọng Trung: Nhà trắng với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 823.
(19) Ngày 1-5-1975, hãng UPI đưa tin: Tổng thống G. Pho không có ý định vi phạm những điều cấm sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam. Nguyễn Văn Thiệu mặc dù ra quân lệnh “kiên quyết lấy Phước Long”, nhưng lại nói trong cuộc họp nội các : “Tốt nhất là giành lực lượng để phòng thủ các khu vực khác có nhiều giá trị chiến lược hơn…”. Dẫn theo Trần Trọng Trung: Nhà Trắng với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Sđd, tr. 830-831.
(20) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 35, Sđd, tr. 192, 195 và 197.
(21) Trần Trọng Trung: Nhà Trắng với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Sđd, tr. 824.
(22) Gabriel Kolko: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, t. 2, Nxb. QĐND, Hà Nội, 1991, tr. 239.
(23) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 36, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 176.