Tiền kim loại Nhật Bản phát hiện ở Thanh Hóa
[ 04/01/2013 19:22 PM | Lượt xem: 2111 ]

TIỀN KIM LOẠI NHẬT BẢN PHÁT HIỆN Ở THANH HÓA

Hoàng Văn Khoán

Đỗ Thị Thùy Lan

   Khoa Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội  

1. Những đồng tiền kim loại Nhật Bản

 

Tại Bảo tàng Thanh Hóa hiện còn lưu giữ một khối lượng lớn tiền kim loại cổ, trong đó đáng lưu ý là những đồng tiền có nguồn gốc từ Nhật Bản. Về niên đại, sớm nhất có đồng người Nhật đúc vào khoảng thời gian thế kỷ IX-XI, và nhiều nhất là những đồng tiền được sản xuất trong thế kỷ XVII. Về nguyên liệu, đây đều là tiền được đúc bằng đồng. Đó là những đồng tiền sau:

1.      Nguyên Hựu Thông Bảo (   ) (Gen Yū Tshu hō)

 

Tiền đúc bằng đồng, đường kính 22 mm, chữ kiểu Triện thư.

Tiền do các quan nhiếp chính đúc ở các tỉnh dưới thời Bình An (Heian)([1]) Trung Kỳ. Đây là thời kỳ mà triều đình mất thực quyền, việc cai quản đất nước do các quan Nhiếp chính, mở đầu hệ thống Samurai, cuối thế kỷ IX đến cuối thế kỷ XI. Tiền Nguyên Hựu được phát hiện có 2 loại: 1 loại lưng trơn và một loại lưng có 2 chữ Thập Khẩu ( ) ở 2 bên lỗ, chữ khẩu viết kiểu Triện thư.

2.      Khánh Trường Thông Bảo (   ) (Kei chō Tshu hō)

 

Tiền đúc bằng đồng, đường kính 23 mm, nặng 2,5g, chữ kiểu Khải thư (Nguyễn Quốc Hùng, Hoàng Văn Khoán 2010: 406).

Tiền được đúc theo niên hiệu Khánh Trường (Keichō: 1596-1610) thập nhất niên (1607) dưới thời Dương Thành Thiên Hoàng - Giang Hộ thời đại (thời Edo). Đây là thời kì việc cai trị tập trung, công nghiệp và thủ công phát triển mạnh mẽ, giao thông được cải thiện đem lại sự thịnh vượng cho buôn bán và thương mại nội địa. Các thị trấn mọc lên nhiều và rất hưng thịnh. Giới thương gia trở nên giàu có.

3.      Hồng Vũ Thông Bảo (   ) (Kōbu Tshu hō)

 

Tiền đúc bằng đồng, đường kính 23 mm, nặng 3g.

Chữ viết theo kiểu Chân thư. Lưng có chữ Trị () trên lỗ. Tiền có nguồn gốc: Từ niên hiệu Thất Đỉnh Trung Diệp đến Khoan Vĩnh thứ 13, dòng họ Ô-Tân được phân phong cai trị vùng Gia Trị Mộc của Nhật Bản đã đúc đồng tiền Hồng Vũ thông bảo theo kiểu đồng tiền Hồng Vũ của Minh Thái Tổ, lưng có chữ Trị () để chỉ địa danh Gia Trị Mộc. Dân gian gọi là tiền Gia Trị Mộc. Tiền này chỉ lưu hành ngoài biên giới Nhật Bản. Tiền đúc vào năm Khoan Vĩnh thập tam niên (1636) (Đinh Phúc Bảo 1992: 217; Nguyễn Quốc Hùng, Hoàng Văn Khoán 2010: 405).

4.      Nguyên Phong Thông Bảo (   ) (Genpō Tshu hō)

 

Tiền phỏng đúc theo tiền Nguyên Phong của Tống Thần Tông, giống với đồng phát hiện ở Hải Phòng, được đúc bằng đồng, đường kính 23 mm, nặng 3g (Hoàng Văn Khoán 2009: 98-99). Đồng tiền được đúc thay cho tiền Khoan Vĩnh Thông Bảo, mang tên Nagasaki (Nagasaki coins), hay còn gọi “Trường Kỳ mậu dịch tiền”. Ở Việt Nam có tiền Nguyên Phong Thông Bảo, dưới niên hiệu Nguyên Phong (1251-1258) của Trần Thái Tông (1225-1258). Ở Trung Quốc có tiền Nguyên Phong của Tống Thần Tông (1067-1085), với niên hiệu Nguyên Phong (1078-1085). Ở Nhật có tiền Nguyên Phong gọi là tiền lưu thông Nagasaki hay Trường Kỳ Mậu Dịch tiền. Trong bài viết của mình, TS. Ishizaki Harufumi cho rằng tiền Nguyên Phong của Việt Nam và tiền Nagasaki giống tiền Trung Quốc và tỏ ra lúng túng trong việc phân biệt (Ishizaki Harufumi  2007: 700). Phân tích so sánh một loại tiền không phải nét đậm hay nhạt, mà trước hết dựa vào tự dạng.

Trên tiền Nguyên Phong Thông Bảo của Việt Nam, chữ thông có bộ quai xước lượn hình zích zắc bao quanh, có người gọi là hình hổ vĩ. Tiền Nagasaki thì bộ bối dưới chữ bảo và chữ phong đều vuông góc. Tiền Nguyên Phong của Trung Quốc thì bộ bối và chữ phong hình bầu dục, 2 nét sổ đầu của chữ phong giống nhành cây. Chúng tôi đã nghiên cứu nhiều sưu tập và xác định 3 loại tiền này dễ dàng (Hoàng Văn Khoán 2009: 98-99; Nguyễn Quốc Hùng, Hoàng Văn Khoán 2010: 414-415; Hoàng Văn Khoán 2011). Vì vậy tiền Nguyên Phong phát hiện ở Hải Phòng, Thanh Hóa là tiền Nagasaki đúc ở Nhật Bản.

Có một vấn đề được đặt ra ở đây, đó là: những đồng tiền mậu dịch Nhật Bản này có nguồn gốc từ đâu? Chúng được tìm thấy ở Thanh Hóa, vậy chúng được du nhập vào đất Thanh từ cửa ngõ nào? Hay nói cách khác, cảng biển nào là thương cảng chính của Thanh Hóa thế kỷ XVII-XVIII, nơi tiếp nhận các tàu thuyền buôn bán quốc tế cùng nguồn ngoại tệ từ quốc đảo mặt trời mọc này?

2. Nguồn gốc

 

Thế kỷ XVI-XVIII là thời đại hoàng kim của thương mại hàng hải trên phạm vi toàn cầu. Những phát kiến địa lý của các quốc gia Tây Âu cuối thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI đã mở ra một thời kỳ Đại Hàng hải không những đối với Cựu Thế giới (châu Âu) mà còn khai mở sang Tân Thế giới (châu Mỹ) và lan rộng khắp thế giới Phương Đông huyền bí. Riêng ở khu vực Đông Á, sự tràn xuống các thương cảng Đông Nam Á của người Hoa sau những thám hiểm Nam Dương do nhà Minh (Trung Quốc) khởi xướng thế kỷ XV, sự năng động của thương nhân Nhật Bản dưới thời Lưu Cầu quốc (thế kỷ XV-XVI) và thời kỳ Châu Ấn thuyền (thế kỷ XVI-XVII) đã tạo nên một luồng gió mới cho hệ thống buôn bán khu vực. Cộng hưởng với những xung lực mạnh mẽ đến từ những đế chế hàng hải phương Tây (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh, Pháp), tất cả đã tạo nên một “Kỷ nguyên Thương mại Châu Á” trên phạm vi Đông Á nói riêng, toàn bộ khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung. Một trong những nhân tố quan trọng đảm bảo sự thông suốt của nền thương mại châu Á, cũng như thế giới, chính là các nguồn kim loại tiền (monetary metals). Nếu việc khai thác những mỏ kim loại quý ở vùng Trung châu Âu đã dẫn đến một cuộc “Cách mạng Thương mại” ở châu lục này trong suốt thế kỷ XIII (Peter Spufford 2002: 12, 14-16, 59, 354-375), thì để tạo nên một Thời kỳ Thương mại châu Á thế kỷ XVI-XVIII, có hai nguồn kim loại tiền quan trọng: một là bạc trắng, tiền bạc từ châu Mỹ La Tinh, và hai là bạc, đồng, tiền đồng từ Nhật Bản.

Nhật Bản là quốc gia xuất khẩu đồng ra thị trường Đông Á trong suốt thời Trung đại; đến giai đoạn Sơ kỳ Cận đại (thế kỷ XV-XVIII), đồng từ quốc đảo mặt trời mọc đã trở thành một trong những thương phẩm chủ chốt của thương mại toàn cầu, có sức ảnh hưởng quan trọng đối với nền kinh tế thế giới (Ryuto Shimada 2005: 3, 11-12). Tuy nhiên, lịch sử tiền tệ Nhật Bản lại không sớm phát triển như vậy. Cho đến giai đoạn thế kỷ XII-XVI, người Nhật vẫn phải sử dụng và lệ thuộc khá nhiều vào nguồn tiền đồng ngoại nhập, cụ thể là tiền Trung Quốc (tiếng Nhật gọi chung là Toraisen)([2]). Hai tác giả R.H.P. Mason và S.G.Caiger cũng nhận định: “Hàng nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc là tiền đồng, tơ lụa, gốm sứ và sách. Thời Nhật Bản chưa đúc được tiền thì tiền đồng Trung Quốc được thông dụng tại Nhật. Việc trả lương và đóng thuế, việc mua bán sản phẩm và đất đai đều được thực hiện chuyển giao bằng tiền đồng dưới hình thức tiền tệ. Có được tiền khiến cho việc sử dụng tín dụng rất dễ dàng và do đó thúc đẩy các hoạt động quốc tế” (R.H.P. Mason & S.G.Caiger 2003: 161; Nguyễn Văn Kim 2007: 143). Mặc dù vậy, lịch sử cũng vẫn ghi nhận những hoạt động đúc tiền của Nhà nước Nhật Bản, manh nha từ thế kỷ VII, và bắt đầu có dấu hiệu gia tăng vào thời kỳ Nara (thế kỷ VII-VIII)([3]), dẫu rằng đó là sự mô phỏng chính sách tiền tệ của nhà Đường (Trung Quốc) và nhằm mục đích chính trị hơn là vì nhu cầu kinh tế, thương mại (cũng tương tự như ở Đại Việt) (Phan Hải Linh 2007: 76-77)([4]). Tất cả những đồng tiền được đúc tại Nhật Bản trước thế kỷ XVII được gọi chung là Shichusen([5]).

Mốc quan trọng của sự phát triển tiền tệ Nhật Bản là vào đầu thập kỷ 1600, khi Tướng quân Tokugawa Ieyasu đã thực hiện một cuộc cải cách hệ thống tiền tệ, và cũng từ đây, Nhật Bản, khác biệt so với các thời kỳ trước, đã trở thành một quốc gia mà “nền kinh tế tiền tệ được thiết lập trong suốt thế kỷ XVII” (Fernand Braudel 1973: 336). Mạc phủ Nhật đã ra sắc lệnh cấm lưu hành các loại tiền Toraisenvà Shichusen, thần dân Nhật Bản chỉ được phép lưu hành các loại tiền được đúc trong nước là Keicho Tsuho (Khánh Trường thông bảo    ), Genna Tsuho (Nguyên Hòa thông bảo) và Kanei Tsuho(Khoan Vĩnh thông bảo    ) mới ra lò vào các năm 1604, 1617 và sau năm 1636. Theo đó, một lượng lớn Toraisen và Bitasen được vận chuyển sang tiêu thụ tại Đại Việt, ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Tại Đàng Ngoài, đến cuối thập kỷ 1620, các loại tiền Nhật Bản đó đã được lưu hành song song với những loại tiền đúc bản địa và tiền nhập khẩu trực tiếp từ Trung Quốc. Đúng như giáo sỹ Alexandre de Rhodes năm 1627 đã ghi nhận ở Bắc Đại Việt có 2 loại tiền đồng: loại lớn do thương nhân Trung Hoa và Nhật Bản đưa đến, được sử dụng rộng rãi trong cả nước; loại bé chỉ được lưu hành tại Thăng Long và Tứ trấn (Alexandre de Rhodes 1994: 38)Thanh Hoa, cũng như Nghệ An, là một ngoại trấn phía Nam của Đàng Ngoài thời Lê - Trịnh, mà theo ghi chép của De Rhodes, lại là một trong những nơi tiền kim loại Trung Quốc, Nhật Bản được lưu thông rộng rãi. Hoa thương (triều Minh - Thanh) và các thương gia Nhật Bản (thời kỳ Châu Ấn thuyền - Shuinsen: 1592-1635) chính là những người đưa tiền kim loại từ quốc đảo Đông Bắc Á vào Đàng Ngoài. Và một số đồng tiền Nhật Bản chúng ta tìm thấy trên đất Thanh Hóa ngày nay được nhập khẩu trong bối cảnh như thế.

Trong số các đồng tiền kim loại Nhật Bản thế kỷ XVII, đáng chú ý nhất là tiền Nagasaki - Trường Kỳ mậu dịch. Sở dĩ những đồng tiền này được gọi như vậy vì chúng được đúc ở Trường Kỳ, tức thương cảng Nagasaki (phía Nam Nhật Bản), chỉ nhằm sử dụng trong việc giao thương với Đông Nam Á, mà phần lớn tiền này được đưa vào Đại Việt trong nửa sau thế kỷ XVII. Loại tiền Nagasaki tiêu biểu và được đúc nhiều nhất là đồng Nguyên Phong Thông Bảo (    Yuan Feng Tung Pao, phiên âm tiếng Nhật là Genho tsuho) trên đây (Lục Đức Thuận 1999; Lục Đức Thuận, Võ Quốc Ky 2009: 195-198.). Tiền mậu dịch Nagasaki bắt đầu được đúc vào năm Manji thứ 2 (1659), khi chi nhánh Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) ở Nhật Bản đề nghị đúc một loại tiền dùng trong thanh toán ngoại thương([6]). Tiền Trường Kỳ được đúc trong suốt 26 năm của thế kỷ XVII (1659-1685), xưởng đúc tiền được phép đúc các loại tiền mậu dịch với bất cứ tên tiền nào, nhưng không được phép dùng niên hiệu Khoan Vĩnh đang dùng trong nước Nhật. Tiền đồng Nagasaki đúc ra được người Hà Lan mua lại, chở đến bán cho Đại Việt, nhưng tuyệt đối cấm không được lưu hành trên đất Nhật Bản, người dân Nhật nào trái lệnh sẽ bị tử hình. Trong khoảng thời gian thịnh hành của tiền Trường Kỳ, việc khám xét được diễn ra nghiêm ngặt tại cây cầu nối liền đảo Deshima (nơi có thương điếm Hà Lan) với đất liền Nagasaki; những thương nhân Nhật giao dịch với VOC đều bị các võ sỹ đạo (samurai) của chính quyền Mạc phủ kiểm tra gắt gao, bắt trao đổi tiền Nagasaki thành tiền Khoan Vĩnh ngay tại chỗ([7]). Năm Jokyo thứ 2 (1685), Mạc phủ Đức Xuyên cho ngừng sản xuất tiền Nagasaki, một phần do Công ty Hà Lan và thương nhân Trung Quốc đã giảm nhu cầu, chuyển sang đúc tiền bằng bạc vì giá trị bạc cao hơn đồng([8]).

Nếu các loại tiền trước của Nhật Bản (là Toraisen và Shichusen-Bitasen), trong đó có đồng Nguyên Hựu Thông Bảo đã tìm thấy ở Thanh Hóa mà chúng tôi trình bày trên đây, được đưa đến Đại Việt và Đàng Ngoài bởi chính thương nhân quốc đảo([9]) và người Hoa từ lục địa Trung Quốc, thì tiềnGenho tsuho hoàn toàn do VOC và Hoa thương đảm nhận việc buôn bán, vận chuyển đến đất Việt. Người Hà Lan bắt đầu nhập khẩu tiền zeni Nhật([10]) vào Bắc Đại Việt từ năm 1661, đặc biệt từ sau năm 1668 và cho đến tận năm cuối cùng là 1677, với tổng cộng khoảng hơn 2 triệu đồng zeni được đưa sang Đàng Ngoài, góp phần giải quyết cơ bản vấn nạn thiếu tiền hoành hành tại đây trong suốt thời kỳ này (Hoàng Anh Tuấn 2010: 207, 217). Bên cạnh người Hà Lan, người Trung Quốc buôn bán Đàng Ngoài - Nhật Bản và vị phú thương Nhật lưu trú tại Kẻ Chợ thế kỷ XVII (ông Resimon theo cách gọi của Hà Lan, hay Risemondonne trong tư liệu Bồ Đào Nha) cũng tham gia hoặc có ý định tham gia vào hoạt động nhập khẩu tiền đồng zeni vào Bắc Đại Việt (Hoàng Anh Tuấn 2010: 189, 195, 205, 209, 211, 217; Hoàng Anh Tuấn 2009: 26; George Bryan Souza 2004: 119), cho dù thực tế thì Phủ chúa Trịnh chỉ cho phép VOC kinh doanh loại tiền này, còn các nhóm khách thương ngoại quốc khác, trong đó có người Hoa, thì bị cấm (Hoàng Anh Tuấn 2010: 204).

Vấn đề đặt ra là các khách thương ngoại quốc đã nhập khẩu một lượng lớn tiền đồng Nhật Bản vào Bắc Việt Nam trong thế kỷ XVII; tuy nhiên, khảo cổ học ngày nay vẫn chưa tìm thấy một đồng tiền Nhật nào ở Thăng Long cũng như Phố Hiến, cho dù gốm thương mại Nhật Bản thế kỷ XVII (gồm Hizen, đảo Kyushu) ở cả trên mặt đất và dưới lòng đất đã được phát hiện (Tống Trung Tín, Hà Văn Cẩn, Nguyễn Văn Hùng 2000; Tống Trung Tín và các cộng sự 2000; Bùi Minh Trí, Nguyễn Văn Hùng 2004; Tống Trung Tín, Hà Văn Cẩn, Trần Anh Dũng, Nguyễn Thị Dơn 2006; Hoàng Văn Khoán 2008; Hán Văn Khẩn  2002; Trịnh Cao Tưởng 1996; Tống Trung Tín 2000; Kikuchi Seiichi 2004; Nguyễn Xuân Mạnh 2011). Tương tự như vậy, tại thương cảng Hội Thống (Hà Tĩnh), nơi có thể khẳng định chắc chắn sự lui tới, lưu trú của tàu thuyền và thương nhân Nhật Bản thế kỷ XVI-XVII (Phan Thanh Hải  2008: 61, 62, 70), thì khảo cổ học Đền Huyện cũng mới chỉ tìm thấy gốm sứ và tiền đồng Trung Quốc (Hà Văn Cẩn 1994; Trịnh Cao Tưởng 1996: 58, 61). Cho đến hiện tại, ở Miền Bắc, chúng ta mới biết đến hai địa điểm phát hiện tiền kim loại Nhật Bản là Hải Phòng và Thanh Hóa. Nếu những đồng tiền Nhật ở An Dụ (Khởi Nghĩa, Tiên Lãng, Hải Phòng) gắn liền với cảng thị Domea và cửa biển Thái Bình (cửa Sông Đàng Ngoài (Tonkin River) thế kỷ XVII-XVIII), thì tiền kim loại Nhật Bản phát hiện ở Thanh Hóa được đưa vào từ cảng biển nào?

Chúng ta đã biết dọc duyên hải Thanh Hóa có khá nhiều cửa biển lớn và nổi tiếng như Thần Phù - Chính Đại, Lạch Sung (cửa sông Lèn, Nga Giang), Lạch Trường, Hội Triều (còn gọi Lạch Hới, Lạch Trào), Hàn Hải Khẩu (hay cửa biển Điển Canh, Ngọc Giáp, dân gian gọi cửa Hãn, Lạch Ghép hoặc Lạch Mom) và Lạch Bạng - Biện Sơn. Trong số đó, nếu các cửa Thần Phù, Lạch Sung thế kỷ XVII đã bước vào quá trị bị bồi lắng mạnh, thì các cửa Hới, cửa Ghép cũng nổi tiếng với câu ca: “Lạch Ghép khó vào, Lạch Trào khó ra”. Đặc biệt, cửa Hội Triều, tuy là một cửa biển mà Nhà nước Đại Việt thế kỷ XV đã quy định là nơi tập trung lưu trú của khách thương ngoại quốc (Nguyễn Trãi 1976: 244), nhưng cũng nổi tiếng bất tiện cho tàu thuyền cập bến không chỉ trong tư liệu dân gian, mà chính Dư địa chícủa Phan Huy Chú thế kỷ XIX cũng chép: “Cửa Hội Trào ở huyện Quảng Xương, sâu hẹp quanh co, thuyền bè đi ra thì khó, vào thì dễ, tục gọi là cửa Dễ-vào-khó-ra” (Phan Huy Chú 1960: 49). Nghiên cứu về quá trình thành tạo của đồng bằng sông Mã (sông Lễ) cũng cho thấy, cửa Hới chỉ trở thành cửa chính của sông Mã sau khi sông Chu (sông Lường, Lương Giang) “trổ đường” ra gặp sông Mã, để sông Mã “trổ núi” Hàm Rồng mà ra biển, tạo thành nhánh Lạch Trào, một quá trình được xác định trong khoảng từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX (Nguyễn Đình Thực 1978: 50, 52-54).

            Như vậy, dùng phương án loại trừ, ta chỉ còn hai cửa biển Lạch Trường và cửa Bạng - Biện Sơn. Cửa Lạch Trường, còn gọi là cửa biển Linh Trường hay tấn Y Bích, cũng là một cửa biển lớn, nơi các triều đại quân chủ Việt Nam, theo tương truyền, đã đặt một “đồn tuần phòng” ở đây, do vậy, dân gian còn đặt tên “sông Tuần Ngu”. Việc các vương triều Trần, Hồ, Lê Sơ, Lê Trung Hưng (cuối thế kỷ XVI) đã cho bố trí một lực lượng lớn quân đội, cho đóng cọc, kè cắm lòng sông, cửa biển để chống quân Chiêm Thành, quân Minh, và đặc biệt là nỗ lực khơi vét “Linh Trường cảng” của hoàng đế Lê Thánh Tông nửa sau thế kỷ XV đã chứng tỏ tầm quan trọng, vị trí thep chốt của hải khẩu này (Đại Việt sử ký toàn thư 1993, tập II: 167, 433, 466-467; tập III: 165; Khâm định Việt sử thông giám cương mục 2007, tập I: 642, 1030; tập II: 182; Hà Mạnh Khoa 2002: 153-154). Tuy nhiên, theo Giáo sư Đào Duy Anh và Tiến sỹ Hà Mạnh Khoa, cửa sông Lạch Trường chỉ đóng vai trò là cửa chính của sông Mã từ thời Lê Sơ trở về trước (Đào Duy Anh 1965: 41-42; Hà Mạnh Khoa 2002: 153), thế kỷ XVII cũng quan trọng đối với giao thông, giao thương nội địa, và một chừng mực nào đó với buôn bán quốc tế, nhưng không thể so sánh với cửa Bạng. Bản thân Hòn Nẹ (tức “Cù lao Các Ngư ông” hay “Đảo Những người Đánh cá” trên bản đồ và thư tịch cổ phương Tây thế kỷ XVII-XVIII)([11]) ở ngoài cửa biển Y Bích cũng là một hải tiêu, một nơi rất tốt để buông neo, nhưng lại gắn nhiều hơn với cửa Đáy (Độc Bộ,Rockbo/Roquebo)([12]), và đặc biệt, nó không thể sánh được với đảo Biện Sơn về quy mô cũng như vai trò quan trọng trong giao thông ven biển Bắc - Nam của Đại Việt thời Trung đại, cũng như cho đến tận ngày nay.

Cửa Bạng, hay còn gọi cửa biển Du Xuyên, nằm về phía Nam tỉnh Thanh Hóa, thời Lê - Nguyễn thuộc huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia (Đại Nam nhất thống chí 1970: 242-243)([13]), nay thuộc huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa). Thế kỷ XVI - nửa đầu thế kỷ XVII, đây là cửa biển trọng yếu để các thương nhân Bồ Đào Nha, các giáo sỹ Dòng Tên đi vào nội địa Bắc Đại Việt, trước cả khi cửa Sông Đàng Ngoài được người phương Tây khám phá (Alexandre de Rhodes 1994: 81-82, 85; Linh mục Nguyễn Hồng 1959: 21-24, 101-103)([14]). Phía bên ngoài cửa Bạng là đảo Biện Sơn, ở vĩ độ 1917’ Bắc([15]), được mô tả như một cánh tay khổng lồ chìa ra biển, ôm trọn lấy một vụng nước sâu, thích hợp làm nơi ẩn náu, tránh gió bão cho tàu thuyền viễn dương([16]). Sách Đại Nam nhất thống chí chép: “Hòn Biện Sơn: ở ngoài cửa Bạng 7 dặm thuộc huyện Ngọc Sơn [phủ Tĩnh Gia], nổi vọt lên ở giữa biển… Núi này là trấn sơn ở Biện Hải, thuyền biển thường đỗ ở đây để tránh sóng gió, nay [thế kỷ XIX] có đặt pháo đài” (Đại Nam nhất thống chí 1970: 233-234).

Trong tư liệu thư tịch phương Tây thế kỷ XVII-XVIII, Biện Sơn được mô tả là một hòn đảo đáng kể nhất của “Vịnh Đàng Ngoài”, đóng vai trò quan trọng không chỉ đối với các tàu thuyền quốc tế, mà còn với cả nền ngoại thương, tài chính của Nhà nước Lê - Trịnh. Người dân địa phương gọi đảo là Hòn Biện (“Twon Bene” hoặc “Twon-bene”); còn người Hà Lan trước thập niên 1680 vẫn thường xuyên đi qua, ghé đậu và đặt tên là Đảo Kẻ Cướp hay Đảo Hải Tặc (Roover Eiland, Rovers Eijlandt, Rovers IslandRover’s IslandIsle of Pirates, Isle of Brigands) bởi nơi đây có đặt một trạm hải quan thu thuế thương mại lớn nhất của Đàng Ngoài (C. C. van der Plas 1955: 21; Samuel Baron 1811: 658-659; Richard 1811: 711, 712)([17]). Trên bản đồ của Hà Lan giữa thế kỷ XVII([18]), đảo “Biện” hay “Biện Sơn” cũng được khắc họa rõ nét với tên gọi “Isla Boansima of het Boers Eilt”; bản đồ Quần đảo châu Á (Asiatic Archipelago) của J. Arrowsmith đầu thế kỷ XIX([19]) cũng xuất hiện tên đảo Biện (“Bowan sima”) ở “Ke Hoa” (Kẻ Hoa, tức Thanh Hóa), nằm về phía bắc của đảo Frakaki thuộc Nghệ An([20]).

            Có thể thấy, đảo Biện Sơn, hay Đảo Cướp, Đảo Hải Tặc, hội tụ 2 điều kiện thiết yếu của một thương cảng (port): một là, cảng neo đậu tàu thuyền (habour); và hai là sự trao đổi hàng hóa. Về điều kiện thứ nhất, rõ ràng cả thư tịch cổ (địa chí thời Nguyễn, thư tịch phương Tây) và thực tiễn ngày nay đều cho thấy Biện Sơn có đầy đủ điều kiện tự nhiên của một nơi neo đậu tàu thuận tiện với mực nước sâu, nguồn nước ngọt tốt nhất (Samuel Baron 1811: 658), và bản thân hòn đảo như một bình phong chắn gió bão cho tàu thuyền. Do đó, ở thế kỷ XVII-XVIII, những trường hợp như chiếc thuyền mành Xiêm (Siam junck) của người Anh năm 1682 bị mắc cạn ở doi cát cửa sông Đáy (Luke Va river) cũng phải lui về sửa chữa ở Hòn Biện (Win Bien hoặc Twan Bein) rồi mới tái hạ thủy đi nơi khác (British Factory in Tonkin (Thương điếm Anh ở Đàng Ngoài): nhật ký ngày 24/4/1682)([21]). Cũng chính vị trí địa lý đã biến Hòn Biện thành một trạm dừng chân thiết yếu của tàu thuyền buôn bán dọc ven biển Bắc - Nam của Đại Việt (Nguyễn Văn Kim 2002: 47-48; Nguyễn Văn Kim

Khoa Khoa học xã hội & Nhân văn

(0208).3848.976
Loading the player ...

Liên kết website

Thống kê website

Lượt truy câp: 1837307
Trong ngày:
Đang online: 25