Phát triển các loại hình hợp tác xã hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
[ 08/11/2012 00:48 AM | Lượt xem: 1599 ]
TCCSĐT - Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn nhiều đến vấn đề Hợp tác xã. Thực chất đây là tư tưởng cách mạng trong lĩnh vực tổ chức sản xuất từ điều kiện Việt Nam. Nó không chỉ là cách mạng ngay trong khi công cuộc giải phóng dân tộc chưa hoàn thành, sau khi đã giành thắng lợi mà cả trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế hiện nay.


Tư tưởng Hồ Chí Minh bàn về cái gì? Trả lời một cách khái quát nhất: bàn về cách mạng, trước hết cách mạng đối với Tổ quốc Việt Nam, dân tộc Việt Nam, sau là bàn về cách mạng thế giới. Do đó, dù Chủ tịch Hồ Chí Minh có trực tiếp bàn về một vấn đề nào đó cũng đều nằm trong phạm trù rộng lớn: Cách mạng, cách mạng và cách mạng. Bởi lẽ, Người chỉ có một khát vọng bỏng cháy là cứu Tổ quốc mình khỏi vong quốc nô, nhân dân mình khỏi thân phận nô lệ, nghèo hèn.… Trái tim yêu nước thương nòi đã thôi thúc Người ra đi để tìm lời giải cho bài toán cứu dân, cứu nước. Con đường cách mạng vô sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn cho cách mạng Việt Nam không chỉ là cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách nô dịch của ngoại bang mà còn giải phóng tất cả các tầng lớp nhân dân Việt Nam thoát khỏi mọi điều kiện sống phi văn hóa. Vấn đề Hợp tác xã mà Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn đến rất nhiều,thực chất là vấn đề cách mạng trong lĩnh vực tổ chức sản xuất của các tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội. Nó không chỉ là cách mạng ngay trong khi công cuộc giải phóng dân tộc chưa hoàn thành, sau khi đã giành thắng lợi mà cả hiện nay trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế hiện nay.

1. Xây dựng hợp tác xã là xây dựng chủ nghĩa xã hội giai đoạn đầu

Ngay trong những bài giảng huấn luyện đội ngũ cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam được mở tại Quảng Châu, Trung Quốc vào những năm 1925-1926, năm 1927 được in thành tác phẩm Đường cách mệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bàn về vấn đề hợp tác xã một cách khá toàn diện, từ lịch sử, mục đích, cơ sở lý luận đến các loại hình hợp tác xã. Đến khi nửa nước được giải phóng, bắt tay vào công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới (khoảng cuối những năm 50 của thế kỷ XX) thì tư tưởng về hợp tác xã của Người dần được hoàn thiện từ chiều rộng đến bề sâu, mang tính khái quát về lý luận. Những quan niệm này đã được thể hiện trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là một bộ phận trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Trong di sản lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chúng ta đã nhận thức được quan điểm của C.Mác, Ph.Ăng-ghen về vấn đề hợp tác hóa nói chung, trong đó có hợp tác hóa nông nghiệp ở điều kiện các nước tư bản phát triển (các nước châu Âu) và các nước tư bản trung bình (nước Nga). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận đó vào hoàn cảnh nước ta, nước nông nghiệp hết sức lạc hậu, đưa ra lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Có thể nói, lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa chưa hề có bài học thực tế từ lịch sử Việt Nam. Do đó, bước đi này hoàn toàn là quan điểm sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong trường hợp cách mạng Việt Nam, để rồi cùng Đảng ta đã vạch ra lộ trình xây dựng hợp tác xã, đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trên cơ sở nắm vững nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, hiểu biết sâu sắc tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề: mỗi dân tộc có một cách riêng đi lên chủ nghĩa xã hội. Người đã đưa ra quan điểm hết sức mới và táo bạo mang tính đặc thù: Đối với Việt Nam, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội “bắt đầu từ nông dân”, lấy nông nghiệp làm khâu đột phá. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ: “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh. Nông dân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh thì cần có hợp tác xã”(1).

Về mục đích của hợp tác xã, Chủ tịch Hồ Chí Minh mượn Tuyên ngôn của hợp tác xã ở Anh nêu: “Cốt làm cho những người vô sản giai cấp hóa ra anh em. Anh em thì làm giùm nhau, nhờ lẫn nhau. Bỏ hết thói tranh cạnh. Làm sao cho ai trồng cây thì được ăn trái, ai muốn ăn trái thì giùm vào trồng cây”.  Người khẳng định: “Hợp tác xã trước là có lợi cho dân, sau là bớt sức bóp nặn của tụi tư bản và đế quốc chủ nghĩa”. Sau này Người nhấn mạnh một lần nữa về mục đích của việc tổ chức hợp tác xã: “Chúng ta nhất định phải nâng cao dần đời sống của đồng bào nông dân. Nhưng nếu nông dân cứ làm ăn riêng lẻ thì đời sống không thể nâng cao. Muốn nâng cao đời sống thì chỉ có một cách là tổ chức nông dân làm ăn tập thể tức là tổ chức nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp. Tổ chức hợp tác xã tốt thì mới có thể tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, đo đó mà nâng cao dần đời sống vật chất và văn hóa của nông dân, và củng cố khối liên minh công nông”(2). Hay là: “Chúng ta tổ chức hợp tác xã trước hết là nhằm mục đích nâng cao đời sống của nhân dân”(3). Rõ ràng, hợp tác xã là hơn hẳn sự riêng lẻ. Liên kết, hỗ trợ lẫn nhau, hợp tác xã nhất định mang lại hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh cao hơn.

Khi trả lời câu hỏi “mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì ?”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”(4). Như vậy, theo Người, mục đích của hợp tác xã và mục đích của chủ nghĩa xã hội là tương đồng. Do đó, người dân tham gia xây dựng hợp tác xã cũng chính là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở cơ sở chính là xây dựng hợp tác xã. Sự nghiệp xây dựng hợp tác xã đã biến người dân từ địa vị cá thể, làm thuê thành người chủ mọi mặt đời sống xã hội, trước hết là làm chủ hợp tác xã mà mình là xã viên.

V.I.Lê-nin cũng đã từng cho rằng: “Khi nhân dân đã vào hợp tác xã tới một mức đồng nhất thì chủ nghĩa xã hội… tự nó sẽ được thực hiện”(5), và “… trong hoàn cảnh nước ta, chế độ hợp tác xã là hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa xã hội”(6), hay “Nếu chúng ta tổ chức được toàn thể nông dân vào hợp tác xã thì chúng ta đứng vững được hai chân trên miếng đất chủ nghĩa xã hội”(7).

Như vậy, cả V.I.Lê-nin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều có quan niệm đồng nhất chế độ hợp tác xã với chủ nghĩa xã hội. Sự đồng nhất này thể hiện trên cả lượng và chất. Về số lượng, khi mà nhân dân giác ngộ tới độ tự giác tham gia xây dựng hợp tác xã để làm ăn có hiệu quả cao hơn, tránh được tình trạng người bóc lột người, thì có nghĩa là toàn bộ xã hội đã thoát khỏi chế độ người bóc lột người, người lao động đã được giải phóng. Thực chất xã hội đó đã là xã hội chủ nghĩa. Về chất lượng, hợp tác xã đạt tới trình độ cao thì nó đã bao chứa những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Ở đây cần lưu ý rằng, chỉ có hợp tác xã dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân khi mà Đảng đã cầm quyền, mọi tư liệu sản xuất chính đã thuộc về nhân dân thì hợp tác xã mới có thể đồng nhất với chủ nghĩa xã hội. Hợp tác xã đồng nhất với chủ nghĩa xã hội cũng có nghĩa là chủ nghĩa xã hội được cấu thành bởi những hợp tác xã phát triển ở trình độ cao, hay nói một cách đơn giản đó chính là liên minh hợp tác xã văn minh, ở đó quan hệ chủ đạo là bình đẳng, dân chủ, hợp tác và tương trợ. Xây dựng hợp tác xã ở trình độ cao là vượt lên trình độ thực tại của xã hội, chính là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và tiến hành cuộc cách mạng văn hóa trong các tầng lớp nhân dân. Hợp tác xã đồng nhất với chủ nghĩa xã hội là trên cơ sở nền tảng văn hóa phát triển, trong đó trình độ lực lượng sản xuất, trình độ dân trí và nền giáo dục phải đạt tới trình độ nhất định. Hiểu sự đồng nhất giữa hợp tác xã phát triển và chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của V.I.Lê-nin và Chủ tịch Hồ Chí Minh với ý nghĩa đó. 

Về cơ sở lý luận cho sự cần thiết đối với hợp tác xã, xuất phát từ tình hình dân trí và trình độ sản xuất An Nam khi ấy còn rất thấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra một cách đơn giản, mộc mạc, ngắn gọn để mọi người cùng hiểu: “Tục ngữ An Nam có những câu: nhóm lại thành giàu, chia nhau thành khó” và “một cây làm chẳng nên non, nhiều cây nhóm lại thành hòn núi cao”. Lý luận hợp tác xã đều ở trong những điều ấy”. Theo Người, hợp tác là tất yếu, là nhu cầu tự thân của mỗi người trong công cuộc lao động sản xuất để nuôi sống chính mình, góp phần phát triển xã hội một cách hiệu quả hơn và tránh được sự bòn rút của tư sản.  Rõ ràng, hợp tác xã là liên minh tạo nên sức mạnh để phát triển.

Về chức năng của hợp tác xã, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ hai chức năng chính: bảo đảm cho nông dân làm giàu và duy trì sự phát triển bền vững cho nông nghiệp. Hơn thế, hợp tác xã là nhu cầu kinh tế, xã hội và kỹ thuật khách quan trong quá trình vận động đi lên của xã hội Việt Nam. Và sau cùng, sự no ấm của nhân dân, sự cường thịnh của quốc gia phụ thuộc vào một khâu quan trọng nhất: có tổ chức thành công hệ thống hợp tác xã hay không”.

Về loại hình hợp tác xã, căn cứ vào nhu cầu phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một số loại hình hợp tác xã cơ bản: Hợp tác xã tín dụng, hợp tác xã mua, hợp tác xã bán, hợp tác xã sản xuất. Ngày nay do tiến bộ của khoa học - công nghệ, do nhu cầu cao của con người, do sự hội nhập ngày càng sâu của từng quốc gia vào đời sống quốc tế trên nhiều lĩnh vực… nên nhu cầu liên doanh, liên kết ngày càng cao. Do đó, loại hình hợp tác xã dưới nhiều dạng khác nhau đang được đặt ra một cách khẩn thiết trong nội tại từng lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Các loại hình hợp tác xã, vì vậy sẽ ngày càng cần thiết và phong phú.

Về nguyên tắc tổ chức và quản lý hợp tác xã, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên một hệ thống các nguyên tắc để bảo đảm cho quá trình xây dựng hợp tác xã diễn ra phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam và tuân thủ các quy luật vận động khách quan trên mọi phương diện. Có thể nhắc lại 5 nguyên tắc cơ bản để xây dựng hợp tác xã mà Người đã chỉ ra và cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị:

- Thứ nhất, tự nguyện, không được dùng bất cứ hình thức ép buộc nào để đưa người lao động vào hợp tác xã. Tuy vậy, đây là hình thức tổ chức mới, không phải người lao động nào cũng ý thức được vấn đề này. Do đó, đồng thời với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất thì công tác tuyên truyền, hướng dẫn, thậm chí là cả công tác huấn luyện, bồi dưỡng kỹ năng về hợp tác xã phải được đẩy mạnh tới tất cả người lao động, nếu thấy cần thiết thì tổ chức điểm để hướng dẫn, rút kinh nghiệm.

- Thứ hai, tuần tự, tuyệt đối không được nóng vội, đốt cháy giai đoạn. Quá trình xây dựng hợp tác xã phải có những bước đi thích hợp, không đem ý muốn chủ quan áp đặt mà nó được tiến hành theo trình độ xã hội hóa sản xuất, năng lực quản lý của cán bộ, trình độ dân trí. Đó là sự thống nhất giữa các điều kiện khách quan với những nhân tố chủ quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý: “Trước khi mở rộng quy mô hợp tác xã phải chuẩn bị thật tốt về tư tưởng và vật chất, tuyệt đối không nên nóng vội”(8).

- Thứ ba, bình đẳng, cùng có lợi, thiết thực. Người chỉ rõ: “Bất kỳ góp nhiều, góp ít, vào trước, vào sau, ai cũng bình đẳng như nhau”(9). Trong hợp tác xã, mọi xã viên đều công bằng trước lợi ích.

- Thứ tư, dân chủ. Trong việc xây dựng hợp tác xã cũng như quyết định mọi vấn đề chung mọi người được bàn bạc một cách thực sự dân chủ và phải tính toán công bằng hợp lý. Đối với lãnh đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Muốn quản lý tốt hợp tác xã, cán bộ quản trị phải dân chủ, tránh quan liêu, mệnh lệnh, làm việc gì cũng cần bàn bạc kỹ với xã viên”(10).

- Thứ năm, phải có sự lãnh đạo, tổ chức. Việc xây dựng hợp tác xã phải có sự hướng dẫn và giúp đỡ của nhà nước và người lãnh đạo trực tiếp phải có đủ phẩm chất. Người chỉ rõ: “Điều quan trọng bậc nhất hiện nay để phát triển mạnh nông nghiệp là: Chỉnh đốn các ban quản trị hợp tác xã cho thật tốt. Ban quản trị tốt thì hợp tác xã tốt”(11).

Như vậy, từ mục đích, chức năng, nguyên tắc tổ chức trong việc xây dựng hợp tác xã đã khẳng định rõ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: xây dựng hợp tác xã phát triển là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở giai đoạn đầu.

2. Phát triển hợp tác xã hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Các dạng hợp tác xã sơ khai đã xuất hiện ở nước ta ngay trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Nhưng chính thức ra đời các hợp tác xã nông nghiệp trên phạm vi miền Bắc là từ cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ trước.Thời gian tồn tại khá dài, phong trào khá sôi nổi, hợp tác xã nói chung, chủ yếu là hợp tác xã nông nghiệp đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Song, do chủ quan, nóng vội, với những sai lầm, duy ý chí ở cả khâu chỉ đạo lẫn tổ chức thực hiện nên mô hình hợp tác xã hiện thực bộc lộ ngày càng nhiều những bất cập, trong khi đó lại chậm khắc phục, đổi mới, nên đến nửa cuối những năm tám mươi của thế kỷ trước nó đã tan rã từng mảng.

Khi chuyển đổi theo cơ chế mới, nhất là sau Nghị quyết Trung ương 5 khóa VII (năm 1993), kinh tế hộ giữ vai trò độc lập, tự chủ. Đổi mới càng đi vào chiều sâu, nền kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, những đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường đặt ra hàng loạt những vấn đề đòi hỏi người lao động phải hợp tác để phát triển. Một mặt khuyến khích kinh tế hộ gia đình, mặt khác Đảng ta chủ trương: "mở rộng và tăng cường các quan hệ liên doanh liên kết giữa các thành phần, trong đó quốc doanh và hợp tác xã là nòng cốt, dần dần hình thành "chế độ kinh tế hợp tác" trong nông nghiệp và nông thôn như V.I.Lê-nin từng đề cập"(12).

Sau hơn 25 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta hội nhập ngày càng đầy đủ vào nền kinh tế thị trường. Nhưng nền kinh tế thị trường của ta nhất thiết phải định hướng xã hội chủ nghĩa, bởi mục tiêu kiên định của ta là xây dựng một xã hội phát triển nhưng phải là văn minh mà ở đó dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là thuộc tính bản chất. Nhu cầu phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững hiện nay đang đòi hỏi phải đổi mới mô hình hợp tác trước đây, xây dựng mô hình hợp tác xã mới thích hợp. Luật Hợp tác xã đã ban hành, Điều số 3 đã quy định về chính sách của Nhà nước đối với hợp tác xã là “Nhà nước bảo hộ quyền lợi hợp pháp của hợp tác xã, bảo đảm quyền bình đẳng của hợp tác xã trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; ban hành các văn bản pháp luật và chính sách khuyến khích phát triển hợp tác xã; thông qua hợp tác xã để thực hiện chính sách giúp đỡ, hỗ trợ xã viên về xóa đói, giảm nghèo, thực hiện bình đẳng, công bằng và tiến bộ xã hội. Nhà nước tôn trọng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của hợp tác xã, không can thiệp vào việc quản lý và hoạt động hợp pháp của hợp tác xã.  Ngay sau Luật hợp tác xã, Chính phủ ban hành “Nghị định về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác xã” (số 15-CP, ngày 21-2-1997), trong đó quy định hợp tác xã được hưởng một số chính sách ưu đãi về: đất, thuế doanh thu, thuế lợi tức, môn bài, vay tín dụng, đào tạo, bảo hiểm xã hội. Đến năm 2003, Luật hợp tác xã mới đã quy định tại Điều 3 về chính sách của Nhà nước đối với hợp tác xã như sau:

(a) Ban hành và thực hiện các chính sách, các chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã về đào tạo cán bộ; phát triển nguồn nhân lực; đất đai; tài chính; tín dụng; xây dựng quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã; áp dụng khoa học và công nghệ; mở rộng thị trường; đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng; tạo điều kiện để hợp tác xã tham gia các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước. b) Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để hợp tác xã phát triển. c) Bảo đảm địa vị pháp lý và điều kiện sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác. d) Tôn trọng quyền tự chủ, tự quyết, tự chịu trách nhiệm của hợp tác xã trong sản xuất kinh doanh. e) Không can thiệp vào công việc quản lý nội bộ và hoạt động của hợp tác xã.

Những quy định trên đây đã được Chính phủ thể chế hóa bằng nghị định số 88 ngày 11-7-2005 về “Một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích hợp tác xã”.

Đảng và Chính phủ ta coi “hợp tác xã là bộ phận nòng cốt của kinh tế tập thể, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế”(13). Thực tiễn sau hơn 25 năm đổi mới càng giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn, hợp tác xã là điều kiện để phát triển một nền kinh tế hàng hóa toàn diện, hiệu quả, đồng thời nền kinh tế hàng hóa đòi hỏi phải tổ chức hợp tác xã. Trong những năm qua, nhất là từ nửa cuối những năm 90 của thế kỷ trước vấn đề đổi mới hợp tác xã cũ đã trở thành phong trào và lần lượt xuất hiện ở nhiều nơi. Do đó, nhiều hình thức hợp tác xã kiểu mới đã xuất hiện và hoạt động có hiệu quả, trong đó loại hình hợp tác xã dịch vụ cổ phần khá phổ biến.

Loại hình hợp tác xã mới này có nhiều nguồn: cải tổ, mua lại hợp tác xã cũ, mua doanh nghiệp nhà nước giải thể rồi cổ phần hóa xây dựng mới, thu hút vốn của doanh nghiệp nhà nước để vực hợp tác xã cũ… Nhìn chung hợp tác xã kiểu mới này do các xã viên là cổ đông góp vốn xây dựng để sản xuất, kinh doanh. Thực tế hiện nay vấn đề hợp tác để làm ăn mà bản chất của nó là hợp tác xã đã trở thành thực tế phổ biến, rộng rãi trên nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, hợp tác xã loại này chủ yếu làm dịch vụ từng phần hay toàn bộ các nhu cầu đầu vào, đầu ra, điện, thủy lợi, thị trường, ma-két-tinh… thông qua các hợp đồng kinh tế. Hợp tác xã mới này hiện nay nặng về quan hệ kinh tế - kinh doanh mang lại lợi ích vất chất cho xã viên.

Gọi là mới, nhưng hợp tác xã kiểu mới cũng đã có độ dài thời gian hàng chục năm. Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước thông qua những chính sách cụ thể về hợp tác xã chứng tỏ chúng ta quyết không để tái diễn sai lầm về sự nóng vội, chủ quan duy ý chí. Vấn đề đặt ra hiện nay là tốc độ, quy mô, phương thức hoạt động, nguyên tắc tổ chức xây dựng hợp tác xã mới này cần được chỉ đạo như thế nào cho phù hợp, thiết thực, tránh hình thức. Theo chúng tôi cần nhận thức trên mấy phương diện sau:

Một là, hợp tác xã ra đời nhất thiết phải xuất phát từ nhu cầu nội tại của người lao động trên cơ sở sản xuất hàng hóa, cung ứng hàng hóa đòi hỏi. Nhất thiết không dùng bất cứ biện pháp nào gò ép.

Hai là, hợp tác xã ra đời trên cơ sở tự nguyện tham gia và đóng góp của các xã viên, vì lợi ích của họ, với sự hướng dẫn, giúp đỡ về phương thức tổ chức, pháp lý cũng như các chính sách ưu đãi của Nhà nước.

Ba là, để hợp tác xã phát triển đúng bản chất của chế độ ta, nhất thiết phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng trong khuôn khổ luật pháp và Luật hợp tác xã.

Bốn là, hợp tác xã là bộ phận bình đẳng trong nền kinh tế quốc dân, một thành viên chính của xã hội nên phải được bảo vệ bằng tất các các công cụ của nền chuyên chính.

Năm là, Liên minh hợp tác xã các cấp phải trở thành trung tâm để các hợp tác xã phản ánh nguyện vọng, là cầu nối để các hợp tác xã hợp tác trong và ngoài nước để cùng phát triển./.

  
--------------------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1995, t. 4, tr. 124

(2) Hồ Chí Minh, Sđd, t. 8, tr. 388-389

(3) Hồ Chí Minh, Sđd, t. 8, tr. 497

(4) Hồ Chí Minh, Sđd, t. 9, tr. 22

(5) V.I.Lê-nin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát xcơ va, t. 45, tr. 421

(6) V.I.Lê-nin, Toàn tập, Sdd, t. 45, tr. 427

(7) V.I.Lê-nin, Toàn tập, Sdd, t. 45, tr. 428

(8) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 9, tr. 111

(9) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 2, tr. 254

(10) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sdd, t. 8, tr. 50

(11) Hồ Chí Minh, Toàn tập , Sdd, t. 9, tr. 334

(12) Nghị quyết Trung ương 5, khóa VII

(13) Trích “Giải trình của Bộ Chính trị tiếp thu ý kiến Trung ương về đề án kinh tế hợp tác và hợp tác xã số 64/TLHN ngày 27-2-2002 tại Hội nghị Trung ương 5 khóa IX


< Đoàn Phạm Hà Trang >

Khoa Khoa học xã hội & Nhân văn

(0208).3848.976
Loading the player ...

Liên kết website

Thống kê website

Lượt truy câp: 1837307
Trong ngày:
Đang online: 13