Quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam từ tự phát đến tự giác (1919-1930)
[ 20/03/2014 07:00 AM | Lượt xem: 65535 ]

 
Quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam 
từ tự phát đến tự giác (1919-1930)

  Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác-Ăngghen viết: “Vì luôn luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp hoàn cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi”.  Do yêu cầu tìm kiếm thị trường và thuộc địa ngày càng lớn, cuộc chạy đua cạnh tranh, giành giật thị trường giữa Pháp với các nước tư bản khác ở khu vực châu Á, đặc biệt với các nước tư bản mạnh lúc bấy giờ như Anh, là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp. 
           
         Mục đích của chúng là vơ vét nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, bóc lột nguồn nhân công rẻ mạt, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, xuất khẩu tư bản để làm giàu, tiến tới độc chiếm thị trường Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung. Nhưng, về mặt khách quan, cuộc khai thác thuộc địa đã làm cho nền kinh tế Việt Nam có những chuyển biến mới, đồng thời làm cho xã hội nước ta phân hóa ngày càng sâu sắc. Bên cạnh những giai cấp cũ đã xuất hiện thêm những giai cấp, tầng lớp mới trong đó có giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và nằm trong những mạch máu kinh tế quan trọng do chúng nắm giữ. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp và thành phố phục vụ cho việc xâm lược và bình định của chúng ở nước ta.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tuy là nước thắng trận nhưng Pháp đã bị thiệt hại nặng nề về kinh tế, tài chính. Nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh, chính quyền Pháp một mặt ra sức tìm các biện pháp thúc đẩy sản xuất ở trong nước. Mặt khác, tăng cường đẩy mạnh khai thác thuộc địa, khách quan đặt ra cần có giai cấp công nhân để phục vụ trong các công trường, nhà xưởng. Từ đó, giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn lên nhanh chóng. Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, số lượng công nhân có khoảng 10 vạn người và đến năm 1929 đạt tới 22 vạn người, trong đó có hơn 53.000 công nhân mỏ (60% là công nhân mỏ than), 81.200 công nhân đồn điền[1]. Giai cấp công nhân Việt Nam ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế (đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, là sản phẩm của nền đại công nghiệp, là lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa cao, sống tập trung, có tính cách mạng triệt để, có ý thức tổ chức kỷ luật cao...). Đồng thời, còn có những đặc điểm riêng của mình như ra đời trước tầng lớp tư sản dân tộc; bị ba tầng áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến, tư sản người Việt; có quan hệ gần gũi, gắn bó và xuất than chủ yếu từ nông dân; kế thừa truyền thống yêu nước anh hùng, bất khuất của dân tộc; sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hoàn cảnh, đặc điểm ra đời và quá trình phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam dẫn đến giai cấp đó sớm trở thành một lực lượng chính trị độc lập, thống nhất, tự giác trong cả nước, trên cơ sở đó nhanh chóng vươn lên nắm quyền lãnh đạo cách mạng nước ta. Muốn lãnh đạo được cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam phải thành lập được một chính đảng độc lập của mình. Đảng đó phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin, phải có đường lối cách mạng đúng đắn, tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, liên hệ mật thiết với quần chúng và trưởng thành dần trong quá trình đấu tranh cách mạng.
Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, công nhân Việt Nam bị ngược đãi, chèn ép, bóc lột nặng nề. Vì thế, họ đã sớm giác ngộ cách mạng, dần dần xuất hiện phong trào công nhân lớn mạnh. Đặc biệt, từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, phong trào công nhân Việt Nam đã phát triển qua hai thời kỳ từ 1919-1925; từ 1926-1930.
* Thời kỳ 1919-1925:
Để bù đắp những thiệt hại, tổn thất nặng nề trong chiến tranh, thực dân Pháp đẩy mạnh cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919-1929) ở Việt Nam cả về quy mô và mức độ, nên số lượng công nhân tăng lên nhanh chóng. Do đó, phong trào đấu tranh của công nhân cũng mạnh lên.
Đời sống của công nhân Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp vô cùng cực khổ: ngày làm việc thường kéo dài từ 9h đến 10h trong một ngày. “Có nơi như khu dệt Nam Định, ngày công của công nhân trong năm 1924 được quy định bình quân là 12 giờ, công nhân không được hưởng bất kỳ một chế độ bảo hiểm thân thể nào. Tiền lương rất thấp”.[2] Ngoài đồng lương rẻ mạt, chết đói, điều kiện làm việc cực khổ, công nhân còn bị đánh đập, cúp phạt, ngược đãi như nô lệ! Ở nhiều đồn điền, hầm mỏ, bọn chủ tư bản còn lập nhà lao, xà lim riêng để đàn áp các cuộc phản kháng của công nhân. Tình trạng bị áp bức, đói khổ, cộng với lòng yêu nước và truyền thống dân tộc đã thúc đẩy giai cấp công nhân hăng hái đứng lên đấu tranh chống cường quyền.
Vào thời kỳ đầu, do số lượng còn ít, trình độ giác ngộ còn thấp nên những cuộc đấu tranh của công nhân chỉ diễn ra lẻ tẻ, rời rạc ở từng xí nghiệp, từng kíp thợ, xưởng mộc,… Mục đích đấu tranh chủ yếu là đòi quyền lợi kinh tế như tăng lương, giảm giờ làm. Hình thức đấu tranh chủ yếu là đập phá máy móc, đánh cai ký, chủ thầu, phá giao kèo, bỏ trốn tập thể,… “Trong thời gian những năm 1919-1925, số lượng công nhân bỏ trốn, phá giao kèo với chủ đã lên tới 4877 người. Càng ngày, công nhân đã biết sử dụng hình thức đấu tranh đặc thù của mình là bãi công, mặc dù hình thức này bị ghép vào tội “phá rối trị an” và bị kết án tù”[3]. Một sự kiện có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của phong trào công nhân Việt Nam, đó là năm 1921“Liên đoàn công nhân tàu biển ở Viễn Đông” đã được thành lập và phát triển các cơ sở ở Ma Cao, Thượng Hải (Trung Quốc). Một số công nhân, thủy thủ Việt Nam làm việc trên các hãng tàu của Pháp đã gia nhập liên đoàn này. Họ đã có nhiều đóng góp trong việc đưa đón cán bộ, vận chuyển các sách báo cách mạng từ Pháp về trong nước.
Từ năm 1922, phong trào công nhân bắt đầu có nét khởi sắc mới. Đáng chú ý nhất là cuộc bãi công của 600 công nhân thợ nhuộm Sài Gòn-Chợ Lớn. Nguyễn Ái Quốc đánh giá đây là một “dấu hiệu của thời đại mới”, “lần đầu tiên một phong trào như thế đã nhóm lên ở thuộc địa”[4].
Năm 1924, có nhiều cuộc bãi công của công nhân nhà máy dệt, rượu, xay gạo ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương,.. Năm 1925, phong trào công nhân đã xuất hiện nhiều cuộc bãi công có quy mô lớn và có tổ chức lãnh đạo ở một mức độ nhất định. Trong đó, điển hình nhất là cuộc bãi công của 1000 công nhân Ba Son (Sài Gòn) vào tháng 8/1925 để ngăn không cho tàu chiến Pháp chở lính sang tham gia đàn áp phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân và thủy thủ Trung Quốc. Gắn liền với cuộc bãi công này là vai trò tổ chức của đồng chí Tôn Đức Thắng. Sau khi tham gia cuộc binh biến ở Hắc Hải, năm 1920 đồng chí Tôn Đức Thắng về nước, xin vào làm công nhân ở Sài Gòn. Tại đây, ông đã bí mật thành lập tổ chức “Công hội” đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam.
Đặc điểm chung của phong trào công nhân Việt Nam thời kỳ này còn ở mức độ thấp, phụ thuộc vào phong trào yêu nước nói chung, mang tính chất tự phát, chưa tỏ rõ được sức mạnh của một lực lượng chính trị độc lập, chưa có ý thức rõ rệt về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình. Cuộc bãi công Ba Son kết thúc thắng lợi đánh dấu một bước tiến mới của phong trào công nhân Việt Nam: không chỉ nhằm vào mục tiêu đấu tranh kinh tế mà cao hơn nữa còn nhằm vào mục đích chính trị, thể hiện tình đoàn kết giai cấp, đoàn kết quốc tế của công nhân Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, cuộc bãi công Ba Son là một mốc son rất quan trọng trong phong trào công nhân - giai đoạn công nhân Việt Nam bắt đầu đi vào đấu tranh có tổ chức và có mục đích chính trị rõ ràng.
* Thời kỳ 1926-1930:
Từ năm 1925 trở đi, phong trào công nhân Việt Nam có nhiều tác động mới. Đó là phong trào cách mạng dân tộc dân chủ ở Trung Quốc, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Quảng Châu (1927) đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cách mạng Việt Nam. Ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga (1917) vang dội tới Việt Nam ngày một nhiều hơn. Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản (7/1924) đã ra những nghị quyết quan trọng về vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc ở  các nước thuộc địa. Những sự kiện trên trường quốc tế ấy đã giúp cho nhân dân ta nhận thấy rõ hơn bản chất của giai cấp tư sản, yêu cầu cấp thiết sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa như Việt Nam.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, thông qua những hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều người Việt Nam yêu nước khác, các sách báo cách mạng đã được truyền bá vào nước ta. Nhờ đó, giai cấp công nhân Việt Nam bước đầu biết tới Cách mạng tháng Mười Nga, biết đến chủ nghĩa Mác-Lênin, trên cơ sở đó dần dần tiếp thu ánh sáng của chủ nghĩa cộng sản để từng bước thấm sâu hơn vào tinh thần giác ngộ lý tưởng và đã bắt đầu biến thành hành động cách mạng!
Sau khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã xúc tiến mạnh mẽ việc nghiên cứu lý luận giải phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin để truyền bá vào nước ta, từng bước chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập chính đảng tiên phong ở Việt Nam.
Qua một thời gian học tập và nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng đảng kiểu mới ở Liên Xô, ngày 11/11/1924, đồng chí Nguyễn Ái Quốc lên đường trở về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam cùng một số thanh niên hăng hái mới từ trong nước sang theo tiếng gọi của tiếng bom Sa Diện Phạm Hồng Thái (6/1924), để thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (6/1925), có tổ chức Cộng sản đoàn làm nòng cốt nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về trong nước, chuẩn bị tiền đề về tổ chức cho việc thành lập chính đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện chính trị để đào tạo một số thanh niên Việt Nam trở thành những cán bộ cách mạng. Từ năm 1925-1927, đã mở được 10 lớp, mỗi lớp từ một tháng rưỡi đến ba tháng, với tổng số khoảng 200 học viên. Người còn lựa chọn một số học viên ưu tú gửi sang Mátxcơva học tập lý luận ở Trường Đại học Phương Đông,Trường Quân sự Hoàng Phố có cố vấn Liên Xô giảng dạy ở Quảng Châu (Trung Quốc), còn phần lớn lên đường về nước hoạt động. Ngay sau khi Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên ra đời, tuần báo Thanh niên được xuất bản, làm cơ quan tuyên truyền của Hội. Các bài giảng trong các lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu được tập hợp lại, in thành sách với nhan đề Đường cách mệnh (1927). Trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra những phương hướng cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đường cách mệnh được viết ra chính là để trang bị cho cán bộ, công nhân và nhân dân ta hồi đó hiểu biết “rất giản tiện, mau mắn, chắc chắn như 2 với 2 là 4, không tô vẽ trang hoàng gì cả”[5]nhưng rõ ràng là rất cần thiết cho thắng lợi cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Suốt trong hai năm 1926-1927, tác phẩm  Đường cách mệnh, tuần báo Thanh niên đã được bí mật chuyển từ Trung Quốc về trong nước, vào đúng lúc phong trào yêu nước và dân chủ đang sôi nổi từ Bắc chí Nam, trên cơ sở giai cấp công nhân đang lớn mạnh nhanh chóng, nên càng có điều kiện đi sâu vào quần chúng, mở đường cho sự du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin và thúc đẩy quá trình chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam[6].
Nhờ sự ra đời và hoạt động tích cực của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, các tư tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác-Lênin đã được truyền bá rộng rãi trong công nhân và nhân dân lao động. Trên cơ sở đó, phong trào công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ và chuyển biến nhanh chóng về chất. Các cuộc đình công, bãi công liên tiếp nổ ra ở nhiều nơi. Trong hai năm 1926-1927, đã nổ ra 27 cuộc đấu tranh của công nhân, tiêu biểu là cuộc bãi công của 1000 công nhân nhà máy sợi Nam Định, của 500 công nhân đồn điền cao su Cam Tiêm, công nhân cao su Phú Riềng,… Các cuộc đấu tranh này đều nhằm hai mục tiêu chung là đòi tăng lương từ 20% đến 40% và đòi thực hiện ngày làm 8h như công nhân bên Pháp.
Điều đó chứng tỏ, công nhân không còn bị chi phối, lệ thuộc nặng nề vào các yêu sách lợi ích cục bộ, địa phương mà đã biết chú ý tới lợi ích chung của giai cấp bằng cách đề ra các yêu sách phù hợp với nguyện vọng chung của đông đảo công nhân. Một điều kiện thuận lợi quan trọng lúc bấy giờ là một số cán bộ được Nguyễn Ái Quốc đào tạo tại Quảng Châu được đưa về nước, trực tiếp tham gia lãnh đạo đấu tranh. Họ tham gia vào phong trào “vô sản hóa”, cụ thể là đi vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, xí nghiệp, thành thị, nông thôn,… Một mặt, để tự rèn luyện, mặt khác để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin cho công nhân, nông dân và những người yêu nước khác ở Việt Nam. Phong trào “vô sản hóa” phát triển mạnh nhất vào những năm 1928-1929, làm cho phong trào công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Trong hai năm 1928-1929, số lượng các cuộc đấu tranh của công nhân đã lên tới 40 cuộc, tăng gấp 2,5 lần so với hai năm 1926-1927 [7]. Lớn nhất là các cuộc bãi công ở nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy sợi Nam Định, diêm cưa Bến Thủy, xe lửa Trường Thi (Vinh), mỏ than Mạo Khê, Hòn Gai (Quảng Ninh),… Các cuộc đấu tranh đó đã mang tính chất chính trị, vượt ra ngoài phạm vi một xưởng, bước đầu liên kết được nhiều ngành, nhiều địa phương. Tình hình đó chứng tỏ, trình độ giác ngộ của giai cấp công nhân đã được nâng lên rõ rệt.
Đặc biệt, trong cuộc bãi công của 200 công nhân xưởng sửa chữa ôtô Avia (Hà Nội) tháng 5/1929 đã có sự lãnh đạo của Kỳ bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Chi bộ cộng sản đầu tiên, mà người đóng vai trò chỉ đạo trực tiếp là đồng chí Ngô Gia Tự. Để chỉ đạo công nhân đấu tranh, một Ủy ban bãi công đã được thành lập, phát truyền đơn kêu gọi công nhân và nhân dân lao động Hà Nội hưởng ứng và ủng hộ cuộc bãi công của công nhân Avia. Cuộc bãi công đã nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ tích cực của công nhân nhiều nhà máy, xí nghiệp trên địa bàn Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định.
Tháng 7/1929, Tổng công hội đỏ Bắc Kỳ được thành lập, đã đề ra chương trình, điều lệ và quyết định xuất bản tờ báo Lao động làm cơ quan ngôn luận. Sự kiện đó vừa thể hiện bước trưởng thành của phong trào công nhân, vừa tạo điều kiện thúc đẩy giai cấp công nhân đi dần vào đấu tranh có tổ chức, có lãnh đạo thống nhất.
Nhìn chung, trong thời kỳ 1926-1929, phong trào công nhân đã có những bước tiến bộ mới, thay đổi về chất từ có chủ nghĩa, đấu tranh mục tiêu rõ ràng, có tổ chức thống nhất. Những cuộc đấu tranh tự phát đã giảm đi và thay vào đó là những cuộc đấu tranh có ý thức nổ ra liên tục, rầm rộ, rộng khắp, sôi nổi và quyết liệt hơn với số lượng người tham gia đông, có sự phối kết hợp giữa các địa phương, đơn vị đấu tranh, có sự lãnh đạo chặt chẽ của tổ chức công hội hay thanh niên với quy mô ngày càng lớn. Khẩu hiệu đấu tranh không chỉ giới hạn ở mục đích kinh tế mà đã mang tính chất chính trị. Điều đó cho thấy, quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam đang chuyển dần từ đấu tranh tự phát lên đấu tranh tự giác.
Cùng với phong trào công nhân, phong trào nông dân, tiểu tư sản và các tầng lớp nhân dân yêu nước khác cũng phát triển, tạo thành một làn sóng cách mạng dân tộc dân chủ rộng khắp cả nước. Trong đó, giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, đi đầu và trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng.
Trước sự chuyển biến mạnh mẽ trong các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân ngày càng lên cao, “Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên” không còn đủ sức lãnh đạo. Yêu cầu phải thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực lượng toàn dân tộc, đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc đang trở nên bức thiết đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Từ đó, dẫn tới sự tan rã của các tổ chức Thanh niên vàTân Việt, xuất hiện ba tổ chức cộng sản “Đông Dương Cộng sản Đảng”(17/06/1929), “An Nam Cộng sản Đảng” (11/1929), “Đông Dương Cộng sản Liên đoàn” (01/01/1930). Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản đã khẳng định bước nhảy vọt của cách mạng Việt Nam: nó chứng tỏ hệ tư tưởng cộng sản đã giành được ưu thế trong phong trào dân tộc và những điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản đã hoàn toàn chín muồi trong phạm vi cả nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03/02/1930) là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chứng tỏ “rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”[8]. Từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam thực sự trở thành một lực lượng chính trị độc lập, thống nhất trong cả nước. Thông qua chính đảng của mình, giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh lãnh đạo toàn thể dân tộc vượt qua mọi thác ghềnh hiểm trở để đưa con thuyền cách mạng Việt Nam cập bến bờ thắng lợi.
                                                                       
 

________________________________________
[1] Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, H.2006, tr.28
[2] Đại cương Lịch sử Việt Nam tập II, Nxb Giáo dục, H.2007, tr.261
[3] Đại cương Lịch sử Việt Nam tập II, Nxb Giáo dục, H.2007, tr.262
[4] Nguyễn Ái Quốc, Bản án chế độ thuộc địa, Nxb Sự thật, H.1980, tr.153
[5] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập II (1925-1930), Nxb Sự thật, H.1981, tr.181
[6]  Bộ Giáo dục Đào tạo, Lịch sử 12, tập II, Nxb Giáo dục, H.2003, tr.16
[7]  Ngô Văn Hòa, Dương Kinh Quốc, Giai cấp công nhân Việt Nam những năm trước khi thành lập Đảng, Nxb Khoa học xã hội, H.1978, tr.335
[8]  Hồ chí Minh toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, H.2002, tr.8


Khoa Khoa học xã hội & Nhân văn

(0208).3848.976
Loading the player ...

Liên kết website

Thống kê website

Lượt truy câp: 1837307
Trong ngày:
Đang online: 7